Đề thi
SGK
Tài liệu
Tài liệu
Biểu mẫu
Văn bản pháp luật
Công cụ
Từ điển Đồng nghĩa Trái nghĩa
Thành ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ
Chính tả Tiếng Việt
Động từ bất quy tắc
Cụm động từ (Phrasal verbs)
Thêm
Review
Giáo án & Bài giảng
Thông tin tuyển sinh
Lớp
Cấp 1
Lớp 1
Lớp 2
Lớp 3
Lớp 4
Lớp 5
Cấp 2
Lớp 6
Lớp 7
Lớp 8
Lớp 9
Cấp 3
Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12
Tuyển sinh
Vào 10
THPT Quốc Gia
Đăng nhập
Ca dao tục ngữ - Từ điển ca dao tục ngữ Việt Nam
Ca dao, tục ngữ Việt Nam - Các câu ca dao, tục ngữ bắt đầu bằng d - đ
Ca dao, tục ngữ Việt Nam - Các câu ca dao, tục ngữ bắt đầu bằng d - đ
a - ă - â
b
c
d - đ
e - ê
g
h
k
l
m
n
o - ô - ơ
p
q
r
s
t
u - ư
v
x
y
Các từ bắt đầu bằng D - Đ
Dao có mài mới sắc, người có học mới nên.
Dao năng liếc thì sắc, người năng chào thì quen
Dẫu ai xấu xí như ma Tắm nước Đồng Lâm cũng ra con người
Dâu dâu, rể rể cũng kể là con
Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng
Dâu hiền hơn con gái, rể hiền hơn con trai.
Dâu là con, rể là khách
Dẫu rằng da trắng tóc mây, Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa.
Dạy con từ thuở còn thơ, Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Dạy con từ thuở tiểu sinh Gần thầy gần bạn tập tành lễ nghi
Dì ruột thương cháu như con, Rủi mà không mẹ, cháu còn cậy trông.
Dốt đặc còn hơn chữ lỏng
Dốt đến đâu học lâu cũng biết
Dốt kia thì phải cậy thầy Vụng kia cậy thợ thì mày làm nên
Dù ai chồng rẫy, vợ chê Bánh dày Quán Gánh thì về với nhau.
Dù ai nói ngả nói nghiêng. Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời.
Dứa đằng đít, mít đằng cuống.
Đã thành gia thất thì thôi, Đèo bòng chi lắm tội trời ai mang.
Đa tình thì vướng nợ tình Trách ai đã vậy, trách mình sao đây!
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này?
Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi.
Đàn ông đóng khố đuôi lươn, Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.
Đàn ông học sẩy học sàng, đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn
Đàn ông rộng miệng thì tài Đàn bà rộng miệng thì tai láng giềng.
Đắng như mật cá mè.
Đạo vợ, nghĩa chồng.
Đất không ải thì rải thêm phân
Đất màu trồng đậu trồng ngô Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn
Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau
Đầu năm ăn quả thanh yên, Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc
Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm
Đầu năm trồng chuối, cuối năm trồng cam
Đậu ra hoa, thì ta vun gốc
Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng
Đêm đêm con thắp đèn trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng
Đèn cu li nửa nước nửa dầu, Nửa thương cha mẹ, nửa sầu nợ duyên.
Đến đây viếng cảnh viếng thầy Không say mùi đạo cũng khuây mùi trần
Đi bộ thì khiếp Hải Vân Đi thuyền thì khiếp sóng thần, hang Dơi
Đi chơi bốn bề chỉnh chu, Trở về xó bếp chuột chù gặm chân.
Đi đâu cho thiếp theo cùng Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Đi giày cao đế, ngồi ghế bành tượng
Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ, Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha.
Đi mô cũng nhớ quê mình, Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh.
Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Đi xe không mũ, lãnh đủ tang thương
Điên điển mà đem muối chua, Ăn cặp cá nướng đến vua cũng thèm.
Đố ai đếm được vì sao Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Đô Lương dệt gấm thêu hoa, Quỳnh Lưu tơ lụa để mà sánh đôi.
Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết
Đói ăn vụng, túng làm liều
Đói bụng chồng, đau lòng vợ.
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước
Đời cha đi hái hoa người, Đời con phải trả nợ đời cho cha.
Đói cho sạch, rách cho thơm
Đói lòng ăn hạt chà là Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Đói miếng hơn tiếng đời
Đôi ta vợ cấy, chồng cày, Chồng nay sương sớm, vợ nay sương chiều.
Đói thì ăn ráy ăn khoai, đừng thấy lúa giỗ tháng Hai mà mừng
Đói thì đầu gối phải bò Cái chân hay chạy, cái giò hay đi.
Đổi trắng thay đen.
Đời vua Thái Tổ - Thái Tông Con bế, con dắt, con bồng, con mang
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn
Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ
Đốn cây ai nỡ dứt chồi, Đạo chồng nghĩa vợ, giận rồi lại thương.
Đồn rằng kẻ Trọng lắm cau, Kẻ Cát lắm mía, kẻ Mau lắm tiền.
Đông chết se, hè chết lụt
Đông chí trồng bí trồng bầu
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
Đông Nam có chớp chéo nhau Thấp sát mặt biển hôm sau bão về
Đông rắc tía tía màu hồng Gọi con thủ thỉ bảo chồng nhỏ to
Đông Thành là mẹ là cha, Đói cơm, rách áo thì ra Đông Thành.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
Đông the, hè đụp.
Đức Thọ gạo trắng nước trong Ai về Đức Thọ thong dong con người
Đừng có chết mất thì thôi Sống thì có lúc no xôi chán chè.
Đừng tham của rẻ của ôi, Những của đầy nồi là của chẳng ngon.
Được mùa cau, đau mùa lúa
Được mùa chê cơm hẩm. Mất mùa lẫm cơm thiu
Được mùa quéo, héo mùa chiêm
Được người mua, thua người bán
Được no bụng, còn lo ấm cật
Được ta, xót xa người.
Được tiếng còn hơn được miếng
Đường đi chín xã Sông Con, Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay không?
Đường đi những lách cùng lau Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con.
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Đứt gánh giữa đường.