Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016
Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 tỉnh Bắc Giang là đề thi thử đại học môn Văn năm 2016 được Tìm Đáp Án sưu tầm và đăng tải, giúp các bạn tự luyện tập và kiểm tra lại dễ dàng hơn. Đây là tài liệu ôn thi, hệ thống lại kiến thức hữu ích dành cho các bạn học sinh lớp 12. Mời các bạn cùng tham khảo.
Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 Sở GD-ĐT Hà Nội
Đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016 trường THPT Chuyên Nguyễn Huệ, Hà Nội (Lần 2)
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẮC GIANG (Đề thi có 02 trang) |
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA NĂM 2016 MÔN: NGỮ VĂN Ngày thi: 09/4/2016 Thời gian làm bài: 180 phút, không kể phát đề |
Phần I. Đọc hiểu (3.0 điểm)
Đọc bài thơ sau và trả lời những câu hỏi từ 1 đến 4:
Rễ sâu ai biết là hoa
Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười.
Im trong lòng đất rối bời
Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im.
Uống từng giọt nước đời quên
Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng
Nở rồi, trông dễ như không
Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay.
Tụ, tan màu sắc một ngày
Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười
Bắt đầu từ rễ em ơi!
(Chế Lan Viên, Rễ ... hoa)
Câu 1. Bài thơ trên được viết theo thể thơ nào? (0.25 điểm).
Câu 2. Để tạo nên hoa, hình tượng rễ trong bài thơ đã phải trải qua những gì? (0.5 điểm).
Câu 3. Qua sự nhọc nhằn của rễ, bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí gì? (0.25 điểm)
Câu 4. Anh/chị hiểu như thế nào về lời khuyên nhủ "Bắt đầu từ rễ em ơi!"? (Trả lời bằng một đoạn văn từ 5 – 10 câu) (0.5 điểm).
Đọc đoạn trích sau và trả lời những câu hỏi từ 5 đến 8:
Trong xã hội ta, từ ngàn năm nay, tồn tại một tình trạng nước đôi dang dở. Chữ Hán vẫn là công cụ giao tiếp giữa nhà nước và người dân (. .. ) Còn chữ Nôm chỉ để ghi cái đời sống tình cảm hàng ngày, hoặc kêu than, hoặc đùa bỡn... Nó khó học do đó
không phổ biến. Tình trạng chữ viết Việt Nam như trên níu kéo văn hóa đọc với hai nghĩa:
Thứ nhất, ở dạng trực tiếp, nó làm cho sách khó viết, viết xong khó xuất bản, xuất bản xong khó đến với người đọc;
Thứ hai, ở dạng gián tiếp, nó ảnh hưởng tới tư duy con người. Với một thứ chữ thuận tiện, người ta có thể ghi chép, hoàn thiện dần những suy nghĩ của mình và giao lưu với nhau làm cho tri thức ngày càng phong phú. Ngược lại, như ở ta, do thiếu phương tiện (chữ và sách) hợp lý để ghi lại những vận động trong đầu óc, sự suy nghĩ của người ta dễ dừng lại ở tình trạng manh mún rời rạc. Gần đây nhiều người đã công nhận là dân ta làm việc gì thường theo lối chụp giật, mà thiếu thói quen nghiên cứu sự vật; sự nghĩ ngợi hay chắp vá nửa vời, đầu óc người ta không chăm chú theo đuổi cái gì tới cùng (...)
Tất cả những bệnh trạng đó trong tư duy bắt nguồn một phần từ một văn hóa đọc lom đom, một đời sống tinh thần thiếu sách. Đến lượt mình, kiểu tư duy này lại quay trở lại, cản trở người Việt đọc sách.
....
Ca dao tục ngữ truyện cười ở ta thường có thái độ chế giễu với người đọc sách. Dưới những con mắt thế tục, việc đọc sách có vẻ như là một cái gì vô bổ của loại người "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm" (...). Cố nhiên trong thực tế, lại có một tình trạng tế nhị khác, là các làng xã thường đánh giá nhau bằng số lượng kẻ cắm đầu vào sách. Có gì mâu thuẫn ở đây chăng? Không. Học trò xưa ham học để có ngày lều chõng đi thi và trở thành quan chức (từ đây khái quát lên, người ta vẫn tự hào người Việt ham học). Nhưng không thể bảo họ, - đám người "nghiền" sách cốt đi thi kia - là những người đọc sách với đúng nghĩa của nó. Người học để đi thi tự giới hạn trong kiến thức của người chấm cho họ đỗ. Ngược lại đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết. Loại sau ở xã hội ta quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định. Giải thích sao về hiện tượng này? Suy cho cùng ở xã hội nghèo, mọi việc vẫn do miếng cơm manh áo quyết định. Khi có thể dùng sách để lập thân thì người ta đọc sách. Khi có nhiều con đường khác lập thân mà ít tốn sức lực hơn – kể cả lối giả vờ đọc sách, gian lận thi cử - thì người ta bỏ sách khá dễ dàng. Và đó chính là tình trạng của xã hội hôm nay.
(Vương Trí Nhàn, Vì sao người Việt không mê đọc sách?, chungta.com)
Câu 5. Đoạn trích trên bàn về vấn đề gì? (0.25 điểm).
Câu 6. Tình trạng "nước đôi" của chữ viết nước ta thời trung đại dẫn đến những hệ quả nào? (0.5 điểm).
Câu 7. Theo tác giả, đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là gì? Thực trạng của lớp người này trong xã hội ta ra sao? (0.5 điểm).
Câu 8. Theo anh/chị, làm thế nào để việc đọc sách trở thành một thói quen phổ biến? (trình bày bằng một đoạn văn khoảng 5 – 10 câu) (0.25 điểm).
Phần II. Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1 (3.0 điểm)
Lấy bờ vai và đôi chân làm hình ảnh biểu tượng, anh/chị hãy viết một bài luận với nhan đề:
BỜ VAI VÀ ĐÔI CHÂN
Câu 2 (4.0 điểm)
Cho đoạn trích sau:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Xuân Quỳnh, Sóng, SGK Ngữ văn, Tập 1, NXBGD 2009)
Cảm nhận của anh/chị về những dự cảm và khát vọng tình yêu trong đoạn thơ trên.
Đáp án đề thi thử THPT Quốc gia môn Ngữ văn năm 2016
Các bài phân tích hay nhất tác phẩm Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
Phần I. Đọc hiểu (3.0 điểm)
1. Thể thơ lục bát.
2. Để làm ra hoa, rễ đã phải: xoắn đau núm ruột, chắt chiu từng giọt, uống từng giọt nước đời quên, ăn từng thớ đá.
3. Bài thơ gợi nhớ tình cảm đạo lí "uống nước nhớ nguồn".
(Thí sinh có thể diễn đạt theo những cách khác như: ơn nghĩa, biết ơn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây,...).
4. Bày tỏ được suy nghĩ; diễn đạt rõ ràng, thuyết phục về ý nghĩa lời khuyên trong câu cuối bài thơ.
5. Đoạn trích bàn về văn hóa đọc (Thí sinh có thể diễn đạt cách khác như: việc đọc sách, tình trạng không ham đọc sách của người Việt,...)
6. Tình trạng nước đôi của chữ viết đã níu kéo văn hóa đọc, cản trở người Việt đọc sách.
7. - "Đặc trưng chủ yếu của người đọc sách là một tư duy độc lập và một khao khát bất tận với sự hiểu biết".
- Lớp người này ở ta "quá hiếm, lại còm cõi ít ỏi và chưa thành một lớp người ổn định".
8. Viết được đoạn văn về giải pháp biến việc đọc sách thành thói quen phổ biến.
Phần II. Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1 (3.0 điểm) Viết bài luận với nhan đề BỜ VAI VÀ ĐÔI CHÂN
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định được vấn đề nghị luận
(Thí sinh có thể lựa chọn bất cứ vấn đề nghị luận nào trên cơ sở liên tưởng và phát triển ý từ hai hình ảnh biểu tượng bờ vai và đôi chân).
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
- Giải thích khái niệm "bờ vai", "đôi chân" và liên tưởng tới vấn đề nghị luận.
- Bàn luận:
- Biểu hiện, vai trò, ý nghĩa của vấn đề nghị luận trong cuộc sống (bàn luận, mở rộng vấn đề, lật lại vấn đề để nhìn vấn đề từ nhiều góc độ).
- Rút ra bài học trong nhận thức và hành động.
d. Sáng tạo: có quan điểm riêng, suy nghĩ mới mẻ, diễn đạt sáng tạo, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, pháp luật.
e. Chính tả, ngữ pháp: đảm bảo các quy tắc về chính tả, dùng từ, đặt câu,...
Câu 2 (4.0 điểm) Dự cảm và khát vọng của nhân vật trữ tình trong hai khổ cuối bài thơ Sóng
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận
Mở bài nêu được vấn đề, Thân bài triển khai được vấn đề, Kết bài kết luận được vấn đề.
b. Xác định đúng vấn đề nghị luận
Những dự cảm và khát vọng trong tình yêu của nhân vật trữ tình.
c. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
- Những dự cảm về sự mong manh trong tình yêu (cuộc đời tuy dài nhưng "năm tháng vẫn đi qua", "biển kia dẫu rộng" nhưng vẫn không giữ nổi mây).
- Những khát vọng được hóa thân để được bất tử, vĩnh hằng với tình yêu.
- Sự bộc lộ những dự cảm và khát vọng thể hiện một tình yêu vừa sâu lắng vừa nồng nhiệt; mang nét đặc trưng tình cảm, tâm lí người phụ nữ khi yêu.
- Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích.
d. Sáng tạo: có quan điểm riêng, suy nghĩ mới mẻ, phù hợp với đặc trưng tiếp nhận văn học, diễn đạt bằng ngôn ngữ
của mình.
e. Chính tả, ngữ pháp: đảm bảo các quy tắc về chính tả, dùng từ, đặt câu,...