Phân tích nhân vật cô Hiền trong truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải

Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp trong chiều sâu tầm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.


Truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên xuất bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.

Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp trong chiều sâu tầm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.

Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến đối với cô Hiền — “Chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”.

Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chi giới thiệu về ngôn ngữ, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con với người thân, với bạn bè, với thời cuộc.

Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo...” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.

Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”, thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. hai vợ chồng vẫn qua lại thân tình, “ngàv giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.

Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn" các bà bạn và “thức thời hơn” ông chồng. Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ. một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954. Hà Nội được giải phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về. Chỉ một năm sau, cái thời “cải tạo...". một cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp:”Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”.

Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ đế kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: “Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ được không?”. Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”, ông chồng “tính vốn nhát, rút lui ngay” trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.

Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chi bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre...rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp.. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.

Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: ‘Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!” thì cô  gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”. Khi thấy người chồng nắm tay đứa cháu, hỏi hồn nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”, thì cô “thở dài, quay người đi”. Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.

“Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội” là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản lĩnh, tất cả mọi việc đều được các bà ấy “tính toán trước cả”, và luôn luôn “tính đúng”. Các bà ấy “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô”. Các bà ấy “không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẫn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm đế ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là lời nhận xét của người cháu - đồng chí Khải.

Cô Hiền tuvên bô thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng. Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ, làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.

Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị".

Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ gia đình: người vợ không chi là nội trợ mà là “nội tướng”. Cô phê bình người cháu - đồng chí Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Người đàn bà không là “nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.

Là người mẹ cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ", nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Gia huấn ca tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:

Khi còn bé tại gia hầu hạ,

Dưới hai thân vâng dạ theo lời.

Khi đi, khi đứng, khi ngồi,

Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...

Phái chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói rõ với người cháu về '‘nghĩa vụ” của người mẹ là dạy con cái: “biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy”.

Giữa thời chống Mỉ. cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyên chọn rất kĩ càng, có khoáng 660 người, “là những chàng trai ưu tú của Hà Nội”. Dũng là con đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mĩ lần ấy. Khi đứa cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra di. Nhưng khi đứa em kêu làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.

Giữa thời khói lứa, cô Hiền đã dạy con như vậy đó về lòng tự trọng, về nghĩa vụ của người thanh niên. Cô cũng đã tỏ rõ lòng yêu nước, tâm thế của một người mẹ, một người phụ nữ Hà Nội giữa cộng đồng: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui vẻ thì có hay hớn gì".

Cô Hiền đã may mắn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, Dũng, con trai cô đã trở về. Cô ngạc nhiên hỏi: “Anh muốn mua gì?” khi người con đeo ba lô bước vào đến giữa nhà. Người con của cô gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá chả có dấu vết gì là một chàng trai Hà Nội nên người mẹ sao kịp nhận ra được.

Ngày thường, cô Hiền, các bạn của cô Hiền.. ăn mặc bình dân, “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc cổ hay bịt đầu . Nhưng trong bữa tiệc liên hoan mừng đứa con trai đi đánh giặc bình yên trở về, các vị khách - các cựu công dân Hà Nội, ăn mặc thật  sang trọng. Các ông thì áo ba-đờ- xuy, bộ đồ, thắt cà vạt; các bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác “áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”', còn cô Hiền xuất hiện “như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh ...’’.

Cô nói với đứa cháu về cách sống: khi sống giữa những người bình dân, “tất cả đều có quyền ăn nói thô tục”, nhưng sống trước những người quý phái “mình phải xử sự ra sao?”. Đó là cách ứng xử của cô Hiền, của những bè bạn của cô, của người Hà Nội. Đúng như cô Hiền đã thổ lộ: “Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị...”. Cái chuẩn đó là mọi tinh túy, mọi cái tốt đẹp của lối sống, cách sống của văn hóa, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Đó là cách sống của cô Hiền.

Phần cuối, nhân vật “tôi" đã kể chuyện từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội đến thăm cô Hiền sau nhiều năm đã trôi qua. Có biết bao thay đổi. Ông chú đã mất, các em đều có gia đình riéng, cô đã già yếu, đã ngoài bảy mươi
tuổi. Nhưng “cô vẫn là người của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”. Người cháu nói về phòng khách của gia đình của cô Hiền với bộ xa lông gụ “cái khánh”, cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp, với bao đồ gia bảo cổ, quý giá khác. Hình ảnh cô Hiền - một bà lão đang lau đánh cái bát thủy tiên men đỏ khi ngoài trời rét, mưa rây lả lướt mà đứa cháu “thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội”. Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của văn hóa Thăng Long. Hình ảnh cô Hiền làm cho đứa cháu lan man nghĩ cách sống, cái tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám người vừa thoát cái chết cái khổ “đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên”.

Cô Hiền nhắc lại: “Nhiều người tới Hà Nội đã sống lại”. Người cháu kể lại một số hiện tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến “không mấy vui vẻ...” giữa thủ đô.

Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm y hệt một bà già nhà quê”. Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung... lúc đầu cô nghĩ đó là “sự dời đổi, điềm xấu là sự ra đi của một thời”. Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngầm: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: “Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá". Cô Hiền là “một hạt bụi vàng”, nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô, tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

Dẫu không thanh lịch cũng ngườiTràng An.

Ca dao

Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật “tôi” cũng như của mỗi chúng ta là “thật tiếc" khi một người như cô Hiền phải chết đi, “một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”. Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của người Tràng An “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!”.

Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện Một người Hà Nội làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí, vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hóa của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.

Năm 2010 , đồng bào cả nước ta tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long (1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập Một người Hà Nội của Nguyễn Khải đã và đang tỏa sáng tâm hồn mỗi chúng ta.

 



Bài giải liên quan

Bài học liên quan

Từ khóa phổ biến