Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Tiếng hát con tàu
Hãy nêu nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu và giải thích ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ. Em hãy bình giảng khổ thơ được lấy là đề từ của bài thơ
Phong trào cách mạng rộng lớn đã khơi gợi cảm hứng trong tâm hồn nhà thơ Chế Lan Viên với bao nghĩa tình thắm thiết về một vùng đất “thấm máu" và đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan đề của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ
Về với Tây Bắc là về với hồn mình, nỗi mong chờ của Tây Bắc chính là nỗi mong chờ của hồn mình và mẹ yêu thương mà nhà thơ khát khao được gặp lại cũng là Tây Bắc: Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn ta.
Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu, bình giảng khổ thơ đề từ
Bài thơ được sáng tác nhân cuộc phát động nhân dân, nhất là thanh niên đi xây dựng khu kinh tế mới ở miền núi Tây Bắc.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Nhớ bản sương giăng…đất đã hóa tâm hồn" - Ngữ Văn 12
Đoạn thơ này là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ, trong đó có những câu được xem là hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Con gặp lại nhân dân …gặp cánh tay đưa"
Đây là một trong những đoạn thơ khá hay trong bài thơ. Với lối xây dựng hình ảnh mới lạ, với lối so sánh giản dị nhưng sâu sắc. Chế Lan Viên đã hướng người đọc đến một quy luật có tính phổ quát trở về với nhân dân là con đường tất yếu.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan viên: "Con gặp lại nhân dân….bỗng gặp cánh tay đưa"
Đoạn thơ trên đây của Chế Lan Viên là một tiếng lòng được nâng lên thành một triết lí đẹp: Hạnh phúc khi được gặp lại nhân dân. Bốn câu thơ, câu nào cũng có hình ảnh đẹp, mới lạ biểu lộ một cá tính sáng tạo sắc sảo, tài hòa.
Bình giảng đoạn thơ: "Nhớ bản….đất lạ hóa quê hương" trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Đoạn thơ trên cho thấy vẻ đẹp văn chương và cốt cách thi sĩ của Chế Lan Viên. Thơ ông hàm súc, mang chất trí tuệ lại được trang phục bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình tượng và truyền cảm.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Ở miền Bắc vào những năm 1958 - 1960 có phong trào vận động nhân dân miền xuôi - chủ yếu là thanh niên lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc. Chính sự kiện kinh tế - xã hội này đã gợi cảm hứng giúp Chế Lan Viên sáng tác bài Tiếng hát con tàu.
Hãy nêu nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và giải thích ý nghĩa nhan để của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy làm đề từ cho bài thơ
Tây Bắc cũng đến soi vào tâm hồn nhà thơ. Nhìn vào hồn mình, ông bỗng phát hiện ra Tây Bắc. Đâu chỉ là một miền đất, một vùng quê trên bản đồ đất nước. Tây Bắc đó là những người anh, người em anh dũng chí tình.
Giải thích ý nghĩa nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên và bình giảng khổ thơ đề từ
Tiếng hát con tàu có vẻ đẹp hài hòa giữa cảm xúc và suy tư, giữa tình cảm và trí tuệ. Đây cũng là đặc điểm phong cách Chế Lan Viên trong Ánh sáng và phù sa.
Hãy nêu nội dung bài thơ Tiếng hát con tàu và giải thích ý nghĩa nhan đề đó của bài thơ. Bình giảng khổ thơ được lấy là đề từ của bài thơ - Ngữ Văn 12
Bài thơ Tiếng hát con tàu thắp sáng trong lòng chúng ta ngọn lửa thiêng liêng về tình yêu Tổ quốc. Tiếng hát ân tình thủy chung vẫn còn làm mê say lòng người. Vì nó là bài học đẹp nhất và sâu sắc nhất.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ ... Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa"
Nhà thơ đã thể hiện được khát vọng trở về với đất nước và nhân dân - cội nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Nhớ bản sương giăng ... đất đã hóa tâm hồn"
Khổ thơ này là sự đúc kết về một quy luật nhân sinh, một sự kì diệu của tâm hồn, nó đánh động đến tâm linh của tất cả chúng ta.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tiếng hát con tàu: "Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ ... Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa"
Đoạn thơ trên đây của Chế Lan Viên là một tiếng lòng được nâng lên thành một triết lí đẹp: Hạnh phúc khi được gặp lại nhân dân. Bốn câu thơ, câu nào cũng có hình ảnh đẹp, mới lạ biểu lộ một cá tính sáng tạo sắc sảo, tài hòa.
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "... Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ ... Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương"
Đoạn thơ trên cho thấy vẻ đẹp văn chương và cốt cách thi sĩ của Chế Lan Viên. Thơ ông hàm súc, mang chất trí tuệ lại được trang phục bằng một thứ ngôn ngữ giàu hình tượng và truyền cảm.
Bình giảng khổ thơ sau đây trong bài thơ Tiếng hát con tàu: "Con gặp lại nhân dân ...gặp cánh tay đưa"
Khổ thơ đã thể hiện nét phong cách của Chế Lan Viên: suy tưởng sâu lắng và sáng tạo hình ảnh phong phú.
Tìm hiểu về cuộc đời và phong cách thơ Chế Lan Viên
Từ bóng tối của chế độ cũ, Chế Lan Viên bước theo vầng sáng chói lọi của lý tưởng, có lẽ cũng có cái gì giống như nàng Kiều "trở về cái sống, còn chuếch choáng những cơn sóng siêu hình".
Phân tích đoạn thơ: "Con gặp lại nhân dân ...con nhớ mãi ơn nuôi" để thấy tình cảm của Chế lan Viên với nhân dân
Trở về với nhân dân là trở về với môi trường quen thuộc, thân thiết, làm nảy nở, phát triển sự sống.
Hãy bình giảng đoạn thơ sau đây trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ...Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương"
Tiếng hát con tàu là khúc hát say mê rạo rực của một tâm hồn đã thoát khỏi cái khung chật hẹp của một cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của nhân dân, đất nước.
Hãy phân tích khổ thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: "Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng? ... Khi lòng ta đã hóa những con tàu"
Một bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang cuồn cuộn chảy theo dòng thác xây dựng lại đất nước. Một bài ra đời trong muôn ngàn sợi nhớ sợi thương vấn vương lòng nhà thơ, lòng tác giả.
Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
Tiếng hát con tàu được Chế Lan Viên viết năm 1960 và in trong tập Ánh sáng và phù sa. Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi, vừa mới trải qua thời kì khôi phục kinh tế, bắt đầu bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất.