Bộ đề thi giữa kì 2 Văn 8 năm học 2023 - 2024 sách mới gồm đề thi sách mới Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức, Cánh diều có đầy đủ đáp án, bảng ma trận và đặc tả đề thi. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho thầy cô trong quá trình ra đề thi và ôn luyện kiến thức cho các bạn học sinh. Đây cũng là tài liệu hay giúp học sinh làm quen nhiều dạng đề kiểm tra giữa kì 2 môn Ngữ văn 8 khác nhau. Mời các bạn tải về tham khảo chi tiết.

Lưu ý: Toàn bộ 6 đề thi và đáp án đều có trong file tải về, mời các bạn tải về tham khảo trọn bộ.

Link tải chi tiết từng bộ đề

1. Đề thi giữa kì 2 Văn 8 Chân trời sáng tạo - Đề 1

Ma trận đề thi giữa học kì 2 Văn 8

TT

Kĩ năng

Nội dung

Mức độ nhận thức

Tổng % điểm

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

TN

TL

TN

TL

TN

TL

TN

TL

1

Đọc hiểu

Thơ Đường luật

2

1

2

1

0

2

0

0

50

2

Viết

Viết bài văn kể lại một hoạt động xã hội

0

1*

0

1*

0

1*

0

2*

50

Tổng

20

10

20

10

0

20

0

20

100%

Tỉ lệ %

30%

30%

20%

20%

Tỉ lệ chung

60%

40%

Đề thi giữa học kì 2 Văn 8 Chân trời sáng tạo

Phần I. Đọc hiểu (5 điểm)

Đọc bài thơ sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ

(Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê)

Hạ Tri Chương

Phiên âm:

Thiếu tiểu ly gia, lão đại hồi,

Hương âm vô cải, mấn mao tồi.

Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,

Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?

Dịch nghĩa:

Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,

Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng.

Trẻ con gặp mặt, không quen biết,

Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?

Câu 1. Bài thơ trên thuộc thể thơ nào?

A. Thất ngôn bát cú đường luật

B. Thất ngôn tứ tuyệt đường luật

C. Thất ngôn xen lục ngôn

D. Song thất lục bát

Câu 2. Dòng nào nêu lên tâm trạng của tác giả trong bài thơ?

A. Vui mừng, háo hức khi trở về quê

B. Buồn thương trước cảnh quê hương có nhiều thay đổi

C. Ngậm ngùi, hụt hẫng khi trở thành khách lạ giữa quê hương

D. Đau đớn, luyến tiếc khi phải rời xa chốn kinh thành

Câu 3. Biện pháp nghệ thuật nào không sử dụng trong bài thơ Hồi hương ngẫu thư?

A. Biểu cảm qua tự sự và miêu tả

B. Phép tương phản

C. Phép đối

D. Ẩn dụ

Câu 4 . Nhận định nào sau đây không đúng với bài thơ?

A. Hai câu đầu có giọng điệu nhẹ nhàng, bình thản, khách quan song pha lẫn nỗi buồn ngậm ngùi

B. Thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết của một người lữ khách nhớ về cố hương.

C. Hai câu sau là giọng điệu hóm hỉnh, bi hài chứa đựng một nỗi buồn ngậm ngùi, cô đơn của tác giả khi về đến quê nhà.

D. Bài thơ sử dụng phép tiểu đối thành công, góp phần thể hiện sâu sắc những tâm tư, tình cảm của tác giả.

Câu 5 (1,0 điểm) Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong hai câu thơ đầu.

Câu 6 (0,5 điểm) Nhà thơ đã thể hiện tâm trạng gì qua câu thơ “ Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai ”?

Câu 7 (1,0 điểm) Sự biểu hiện tình quê hương ở hai câu trên và hai câu dưới có gì khác nhau về giọng điệu?

Câu 8 (0,5 điểm) Em hãy kể tên một số bài thơ đường luật viết về quê hương mà mình biết.

Phần II. Viết (5,0 điểm)

Em hãy viết một bài văn kể lại một hoạt động xã hội mà mình nhớ nhất.

Đáp án đề thi giữa học kì 2 Văn 8 CTST

Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)

Câu

Nội dung cần đạt

Điểm

Câu 1

B. Thất ngôn tứ tuyệt đường luật

0,5 điểm

Câu 2

C. Ngậm ngùi, hụt hẫng khi trở thành khách lạ giữa quê hương

0,5 điểm

Câu 3

D. Ẩn dụ

0,5 điểm

Câu 4

B. Thể hiện tình yêu quê hương thắm thiết của một người lữ khách nhớ về cố hương.

0,5 điểm

Câu 5

- Phép đối: thiếu tiểu – lão đại, li gia – đại hồi; hương âm vô cải – mấn mao tồi.

- Tác dụng: Nhấn mạnh tình yêu quê hương nên tác giả trở về quê hương.

1,0 điểm

Câu 6

Câu thơ “Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai” thể hiện niềm chua xót, u buồn của tác giả khi trở về quê: Đây chính là quê hương ông nhưng ông bị coi là khách lạ. Khách lạ ngay chính quê hương mình. Đây là quy luật tự nhiên, giờ bạn ông chắc đã còn. Song, tự đáy lòng ông rất tủi buồn vì tình yêu quê hương dồn nén hơn 50 năm giờ được đáp đền là thế. Nên nhi đồng hớn hở bao nhiêu thì nhà thơ sầu muộn bấy nhiêu.

0,5 điểm

Câu 7

- Hai câu đầu giọng điệu chân thực, sâu sắc, hai câu cuối hình ảnh âm thanh tươi vui.

- Ý nghĩa: Câu thơ sử dụng những hình ảnh, âm thanh vui tươi để thể hiện nỗi ngậm ngùi, buồn tủi, xót xa của tác giả.

1,0 điểm

Câu 8

HS nêu tên tác giả, tác phẩm: Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan, Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan,…

0,5 điểm

Phần II. Viết (5,0 điểm)

Câu

Nội dung

Điểm

a. Đảm bảo cấu trúc bài văn kể lại một hoạt động xã hội

Mở bài giới thiệu được chuyến đi. Thân bài triển khai được chi tiết chuyến đi. Kết bài nêu được cảm nghĩ của bản thân về chuyến đi.

0,25 điểm

b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Viết bài văn kể lại một hoạt động xã hội mà em nhớ nhất

0,25 điểm

c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các ý sau:

1. Mở bài

- Giới thiệu được chuyến đi: Lí do, mục đích của chuyến hoạt động xã hội.

2. Thân bài

- Nêu những thông tin cơ bản về hoạt động xã hội đó.

- Miêu tả quang cảnh, không gian, thời gian diễn ra hoạt động.

- Kể lại các sự việc theo trình tự hoạt động, kết hợp yếu tố miêu tả, biểu cảm

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị của hoạt động xã hội đã kể; nêu suy nghĩ, tình cảm sâu sắc mà hoạt động gợi ra cho bản thân

3,5 điểm

d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.

0,5 điểm

e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng.

0,5 điểm

Lưu ý: Chỉ ghi điểm tối đa khi thí sinh đáp ứng đủ các yêu cầu về kiến thức và kĩ năng.

3. Đề thi giữa học kì 2 Văn 8 Kết nối tri thức - Đề 1

Đề thi Văn giữa kì 2 lớp 8

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KỲ II

MÔN: NGỮ VĂN LỚP 8

I. Phần đọc hiểu

Đọc ngữ liệu sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:

CỦ KHOAI NƯỚNG

Sau trận mưa rào vòm trời như được rửa sạch, trở nên xanh và cao hơn. Đã chớm hè nhưng trời vẫn lành lạnh, cái lạnh làm người ta hưng phấn và chóng đói. Thường Mạnh đi học về là đi thả trâu. Tối mịt cậu rong trâu về, đầu tưởng tượng đến một nồi cơm bốc khói nghi ngút.

Nhưng từ giờ đến tối còn lâu và cậu cần phải tìm được một việc gì đó trong khi con trâu đang mải miết gặm cỏ. Cậu bèn ngồi đếm từng con sáo mỏ vàng đang nhảy kiếm ăn trên cánh đồng màu đã thu hoạch. Thỉnh thoảng chúng lại nghiêng ngó nhìn cậu, ý chừng muốn dò la xem "anh bạn khổng lồ" kia có thể chơi được không. Chợt Mạnh phát hiện ra một đám mầm khoai đỏ au, mập mạp, tua tủa hướng lên trời. Kinh nghiệm đủ cho cậu biết bên dưới những chiếc mầm là củ khoai lang sót. Với bất cứ đứa trẻ trâu nào thì điều đó cũng tương đương với một kho báu. Nó bị sót lại từ trước Tết và bây giờ nó sẽ rất ngọt. Để xem, anh bạn to cỡ nào? Không ít trường hợp bên dưới chỉ là một mẩu khoai. Nước miếng đã kịp tứa khắp chân răng khi cậu tưởng tượng đến món khoai nướng. Ruột nó trong như thạch. Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này. Thật may là mình đem theo lửa - cậu lẩm bẩm. Sợ niềm hy vọng đi veo mất nên cậu rón rén bới lớp đất mềm lên. Khi cậu hoàn toàn tin nó là một củ khoai thì cậu thọc sâu tay vào đất, sâu nữa cho đến khi những ngón tay cậu ôm gọn củ khoai khá bự, cậu mới từ từ lôi nó lên. Chà, thật tuyệt vời. Nó không chỉ đơn thuần là củ khoai sót. Nó y như quà tặng, một thứ kho báu trời đất ban riêng cho cậu.

Mạnh đã có việc để làm, mà lại là một việc làm người ta háo hức. Trong chốc lát đống cành khô bén lửa và đợi đến khi nó chỉ còn lớp than hồng rực Mạnh mới vùi củ khoai vào. Cậu ngồi im lắng nghe một sự dịch chuyển vô cùng tinh tế dưới lớp than, cùi trắng muốt đang bị sức nóng ủ cho thành mật. Từng khoảnh khắc với Mạnh lúc này trở nên vô cùng huyền diệu. Rồi có một mùi thơm cứ đậm dần, cứ quánh lại, lan tỏa, xoắn xuýt. Cậu nhớ lại có lần bà kể, nhờ đúng một củ khoai nướng mà ông cậu thoát chết đói và sau đó làm nên sự nghiệp. Chuyện như cổ tích nhưng lại có thật. Nào, để xem sau đây cậu sẽ làm nên công trạng gì.

Chợt cậu thấy có hai người, một lớn, một bé đang đi tới. Ông già ôm theo bọc tay nải còn cậu bé thì cứ ngoái cổ lại phía làng. Cậu nhận ra hai ông cháu lão ăn mày ở xóm bên. Hôm nay, chẳng có phiên chợ sao ông cháu lão cũng ra khỏi nhà nhỉ. Vài lần giáp mặt cậu bé và thấy mặt mũi nó khá sáng sủa. Bố mẹ nó chết trong một trận lũ quét nên nó chỉ trông cậy vào người ông mù lòa. Mạnh lén trút ra tiếng thở dài khi ông cháu lão ăn mày đã đến rất gần. Có thể thấy rõ cánh mũi lão phập phồng như hà hít tìm thứ mùi vị gì đó. Cậu bé vẫn câm lặng, thỉnh thoảng lén nhìn Mạnh.

- Mùi gì mà thơm thế - ông cậu bé lên tiếng - Hẳn ai đang nướng khoai. Ngồi nghỉ một lát để ông xin lửa hút điếu thuốc đã cháu.

Ông lão lần túi lấy gói thuốc lào. Thằng bé giúp ông tháo khỏi lưng chiếc điếu nhỏ xíu. Mùi khoai nướng vẫn ngào ngạt và Mạnh đành ngồi chết gí, không dám động cựa. Chỉ khi ông lão nhờ, cậu mới cúi xuống thổi lửa. Chà, ông cháu lão mà ngồi dai là củ khoai cháy mất. Đã có mùi vỏ cháy. Lửa sẽ lấn dần vào cho đến khi biến củ khoai thành đen thui mới thôi. Dường như đoán được nỗi khó xử của Mạnh, ông lão bảo:

- Tôi chỉ xin lửa thôi...

Mạnh như bị bắt quả tang đang làm chuyện vụng trộm, mặt đỏ lên. Nhưng ông lão mắt lòa không thể nhìn thấy còn cậu bé ý tứ nhìn đi chỗ khác.

- Thôi, chào cậu nhé. Ta đi tiếp đi cháu!

Ông lật đật đứng dậy, bám vào vai cậu bé, vội vã bước. Cậu bé lặng lẽ nhìn Mạnh như muốn xin lỗi vì đã làm khó cho cậu. Cái nhìn đĩnh đạc của một người tự trọng, không muốn bị thương hại khiến Mạnh vội cúi gằm xuống. Ôi, giá như có ba củ khoai, chí ít cũng là hai củ. Đằng này chỉ có một... Mạnh thấy rõ tiếng chân hai ông cháu xa dần. Nhưng chính khi ấy, khi củ khoai nóng hổi, lớp vỏ răn lại như từng gợn sóng nằm phơi ra trước mắt Mạnh, thì nỗi chờ đón háo hức lúc trước cũng tiêu tan mất. Giờ đây củ khoai như là nhân chứng cho một việc làm đáng hổ thẹn nào đó. Dù Mạnh có dối lòng rằng mình chẳng có lỗi gì sất nhưng cậu vẫn không dám chạm vào củ khoai... Hình như đã có người phải quay mặt đi vì không dám ước có được nó. Có thể ông nội cậu đã từng nhìn củ khoai nướng cho ông làm nên sự nghiệp bằng cái cách đau đớn như vậy.

Mặc dù rong trâu về từ chiều nhưng mãi tối mịt Mạnh mới vào nhà. Giờ đây mới là lúc cậu sống trọn vẹn với cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá. Cậu nhắm mắt lại mường tượng giây phút cậu bé kia mở gói giấy báo ra. Nửa củ khoai khi đó sẽ khiến cậu ta liên tưởng đến phép lạ, có thể lắm chứ! Và rồi cậu thấy lâng lâng đến mức chính mình tự hỏi liệu đây có phải là giấc mơ?

(Theo Truyện ngắn Tạ Duy Anh)

Câu 1. Câu chuyện xảy ra vào thời điểm nào trong năm?

A. Cuối đông

B. Chớm hè

C. Cuối xuân

D. Đầu thu

Câu 2. Ai là người kể chuyện?

A. Cậu bé Mạnh.

B. Ông lão ăn mày.

C. Người kể chuyện giấu mặt.

D. Cậu bé ăn mày.

Câu 3. Trong câu văn: Có thể ông nội cậu đã từng nhìn củ khoai nướng cho ông làm nên sự nghiệp bằng cái cách đau đớn như vậy., từ “có thể” là thành phần gì?

A. Thành phần cảm thán

B. Thành phần tình thái

C. Thành phần gọi đáp

D. Thành phần phụ chú.

Câu 4. Chủ đề của truyện là gì?

A. Lòng dũng cảm

B. Tinh thần lạc quan

C. Tinh thần đoàn kết

D. Lòng yêu thương con người

Câu 5. Vì sao cậu bé Mạnh lại có “cảm giác ngây ngất của người vừa được ban tặng một món quà vô giá”?

A. Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn mày.

B. Vì nhận được lời cảm ơn của ông lão.

C. Vì được thưởng thức món ăn ngon.

D. Vì không bị lão ăn mày làm phiền.

Câu 6. Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong câu “Những giọt mật trào ra, gặp lửa tạo ra một thứ hương thơm chết người, nhất là khi trời lại lành lạnh thế này.”?

A. So sánh

B. Nhân hóa

C. Nói qúa

D. Nói giảm nói tránh

Câu 7. Cốt truyện của truyện ngắn “Củ khoai nướng” thuộc loại nào sau đây?

A. Cốt truyện đơn tuyến

B. Cốt truyện đa tuyến

C. Không có cốt truyện

D. Không thể xác định.

Câu 8. Cậu bé Mạnh có thái độ như thế nào đối với hai ông cháu lão ăn mày?

A. Tôn trọng

B. Coi thường

C. Biết ơn

D. Thương hại

Câu 9. Nếu em là nhân vật cậu bé Mạnh trong câu chuyện, em có cư xử với hai ông cháu lão ăn mày như nhân vật trong truyện đã làm hay không, vì sao?

Câu 10. Từ câu chuyện của cậu bé Mạnh, em hãy viết đoạn văn (3– 5 câu) trình bày suy nghĩ về lòng yêu thương?

II. Phần viết

Em hãy viết một đoạn văn (khoảng 300 chữ) chia sẻ cảm xúc về bài thơ sau:

Nhớ mùa thu Hà Nội

Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ

Nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu.

Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội

Mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió

Mùa cốm xanh về thơm bàn tay nhỏ

Cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua.

Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi

Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.

Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người

Lòng như thầm hỏi, tôi đang nhớ ai

Sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi

Sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi.

Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội

Nhớ đến một người...

Để nhớ mọi người.

(Trịnh Công Sơn, lời thơ của bài hát Nhớ mùa thu Hà Nội)

Đáp án đề kiểm tra Văn 8 giữa học kì 2

Câu

Yêu cầu cần đạt

Điểm

PHẦN ĐỌC HIỂU

1

B. Chớm hè

0,5

2

C. Người kể chuyện giấu mặt.

0,5

3

B. Thành phần tình thái

0,5

4

D. Lòng yêu thương con người

0,5

5

A. Vì cậu đã chia sẻ một phần khoai nướng với cậu bé ăn mày.

0,5

6

C. Nói qúa

0,5

7

A. Cốt truyện đơn tuyến.

0,5

8

A. Tôn trọng

0,5

9

- Nêu được cách cư xử của Mạnh: Cảm thông, chia sẻ và tôn trọng với những người bất hạnh, kém may mắn.

- Nếu là Mạnh thì em cũng sẽ làm như bạn ấy bởi chỉ có tình yêu thương mới làm rung động trái tim con người, từ trái tim mới chạm đến trái tim vì vậy hành động của Mạnh đã khiến cậu như lớn hơn, chững chạc hơn, tấm lòng bao dung, yêu thương con người của cậu vì thế mà rộng ra mãi.

* HS nêu được cách ứng xử của nhân vật Mạnh cách ứng xử của bản thân phù hợp đạo đức, pháp luật, đảm bảo theo gợi ý: 1,0 điểm; Chỉ nêu được một ý, một phần đáp án: 0,5 điểm; không nêu hoặc nêu sai hoàn toàn: 0 điểm.

1,0

10

Trình bày được một số ý sau:

- Tình yêu thương là sự đồng cảm, thấu hiểu, chia sẻ, gắn bó, quan tâm, giúp đỡ, yêu mến, trân trọng hòa hợp…giữa con người với nhau.

- Yêu thương được xem là một phẩm chất đẹp, cao quý và là giá trị sống cốt lõi của con người giúp con người gần nhau hơn.

- Người đón nhận tình yêu thương có thêm niềm tin vào cuộc sống, có động lực vượt qua khó khăn của cuộc sống.

- Tình yêu thương trao đi có thể là vật chất hoặc tinh thần.

- Thay đổi cái nhìn của mọi người trong xã hội:

- Cần phê phán những người vô cảm, không có thói quen chia sẻ và giúp đỡ người khác.

* HS nêu được ít nhất 3 ý thể hiện suy nghĩ về lòng yêu thương, đảm bảo theo gợi ý: 1,0 điểm; Chỉ nêu được 1 – 2 ý, một phần đáp án: 0,5 điểm; không nêu hoặc nêu sai hoàn toàn: 0 điểm.

1,0

PHẦN VIẾT

Gợi

ý

nội dung

a. Đảm bảo thể thức, dung lượng yêu cầu của đoạn văn .

0,25

b. Xác định đúng nội dung chủ yếu cần bày tỏ cảm xúc.

0,25

c. Triển khai hợp lý nội dung đoạn văn. Có thể viết đoạn văn theo hướng sau:

- Bài thơ là những dòng cảm xúc và nỗi nhớ thiết tha về một Hà Nội cổ kính, nên thơ vào độ thu về.

- Về cấu trúc, bài thơ có năm khổ không đều nhau về số dòng, số chữ. Mỗi khổ biểu đạt một khía cạnh nội dung, cảm xúc; nhưng tất cả thể hiện nỗi nhớ của Trịnh Công Sơn về mùa thu và con người Hà Nội. Hai dòng đầu là nỗi nhớ về một Hà Nội mùa thu với vẻ đẹp lãng mạn, cổ kính mang dấu ấn của đất Kinh kỳ xưa. Khổ hai là nỗi nhớ của tác giả về hương hoa sữa, hương cốm mới – những nét rất đặc trưng của mùa thu Hà Nội. Khổ ba là hình ảnh Hồ Tây trong một buổi chiều thu huyền ảo, khói sương. Khổ bốn và năm là tình yêu và nỗi nhớ của tác giả về con người Thủ đô trong nỗi niềm riêng “nhớ đến một người”.

- Bài thơ với ngôn từ và hình ảnh gợi cảm, mượt mà, đã diễn tả tài tình thần thái của mảnh đất kinh kỳ. Đó là một Hà Nội thật lãng mạn, mộng mơ khi mùa thu về cùng với nét trầm tư, cổ kính của “phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu” mà không nơi nào có được. Qua bài thơ, người đọc bắt gặp hồn thiêng núi sông ngàn năm, đồng thời vẽ nên một bức tranh mùa thu tuyệt vời, mê đắm lòng người qua hình ảnh “cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ”.

- Nếu khổ đầu Trịnh Công Sơn hoài niệm vẻ đẹp ấn tượng nhất, dễ nhận thấy nhất của mùa thu Hà Nội qua màu đỏ của lá bàng, màu vàng của hàng cây cơm nguội, thì sang khổ hai tác giả lại tập trung vào cái tinh vi, vô hình nhưng lại sống động của mùi hoa sữa và hương cốm thơm mỗi độ thu về. Trong khoảnh khắc giao mùa ấy, nét đặc trưng của mùa thu Hà Nội được tác giả khám phá và đưa vào ca từ các hình ảnh vô cùng mới mẻ, ấn tượng. Từng ngọn gió mùa thu thơm nồng nàn hoa sữa, từng bàn tay nhỏ nhắn thơm hương cốm xanh, ngay cả những bước chân người đi trên hè phố cũng bất giác vương vương thơm mùi cốm sữa. Xa Hà Nội, nhưng những gì thuộc về Hà Nội vẫn không rời, cứ vấn vương như một nỗi niềm: “Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội/Mùa hoa sữa về, thơm từng ngọn gió/Mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ/Cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua”.

- Trong khổ ba, hình ảnh Hồ Tây vào buổi chiều thu hiện lên huyền ảo và nên thơ như một bức tranh thủy mặc được nhà danh họa vừa phác vẽ xong. Mặt nước hồ lay động dưới ánh chiều vàng như thể đang xuyến xao, rung cảm theo tiếng mời gọi của bờ xa. Màu sương mờ lãng đãng, giăng giăng như niềm nhớ thương da diết; từng bầy sâm cầm tránh rét đang bay về hướng mặt trời tìm hơi ấm cuối thu.

- Bài thơ sử dụng nhiều hình ảnh đặc trưng của Hà nội, các phép điệp ngữ, điệp cấu trúc, ngôn ngữ gợi cảm... trong lời thơ gợi lên tình cảm lưu luyến, bâng khuâng và cả nỗi nhớ thiết tha trong tâm hồn tác giả.

- Bài thơ làm chúng ta ngỡ ngàng khi nhận được tín hiệu tình yêu thiết tha, bỏng cháy của Trịnh Công Sơn dành cho con người nơi đây. Bắt đầu là tình yêu đối với một người khi “đi giữa mọi người”. Nỗi nhớ ở đây vừa hiện hữu, cụ thể về “một người” nhưng lại hoàn toàn vô hình, vô danh tính. Chính nét khơi gợi nhiều mông lung ấy đã được sự chia sẻ, đồng cảm của nhiều bạn đọc yêu thơ, các thế hệ yêu nhạc Trịnh Công Sơn, yêu mùa thu Hà Nội.

3.0

d. Sáng tạo: Cách diễn đạt độc đáo, suy nghĩ sâu sắc, sáng tạo.

0,25

e. Chính tả, dùng từ, đặt câu: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa tiếng Việt.

0,25

Ma trận đề, đặc tả đề kiểm tra Văn 8 giữa kì 2

KHUNG MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA GIỮA KÌ II

(Thời gian kiểm tra: 90 phút)

TT

Kĩ năng

Đơn vị kiến thức/ kĩ năng

Mức độ nhận thức

Tổng % điểm

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

1

Đọc hiểu

Truyện ngắn (Truyện hiện đại)

4 TN

0 TL

4 TN

0 TL

0 TN

2 TL

0 TN

0 TL

60 %

2

Viết

Viết đoạn cảm nghĩ về thơ tự do

1*

1*

1*

1*

40 %

Tổng

4 TN

1* TL

4 TN

1* TL

0 TN

3 TL

0 TN

1 TL

100%

Tỉ lệ

30%

30%

30%

10%

100%

Tỉ lệ chung

60%

40%

100%

Bảng đặc tả đề kiểm tra

TT

Kĩ năng

Đơn vị kiến thức Kĩ năng

Mức độ đánh giá

Số câu hỏi theo

mức độ nhận thức

Nhận biết

Thông hiểu

Vận Dụng

Vận dụng cao

1

Đọc hiểu

Truyện hiện

đại

Nhận biết:

- Nhận biết đề tài, bối cảnh, chi tiết tiêu biểu.

- Nhận biết được nhân vật, cốt truyện, tình huống, các biện pháp xây dựng nhân vật.

- Nhận biết được các trợ từ, thán từ, thành phần biệt lập.

Thông hiểu:

- Phân tích được tình cảm, thái độ của người kể chuyện.

- Phân tích được vai trò, tác dụng của cốt truyện đơn tuyến và cốt truyện đa tuyến.

- Hiểu và lí giải được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản.

- Nêu được tác dụng của trợ từ, thán từ, thành phần biệt lập được sử dụng trong văn bản.

Vận dụng:

- Nhận xét được nội dung phản ánh và cách nhìn cuộc sống, con người của tác giả qua văn bản.

- Nêu được những thay đổi trong suy nghĩ, tình cảm, nhận thức của bản thân sau khi đọc văn bản.

- Vận dụng những hiểu biết về vai trò của tưởng tượng trong tiếp nhận văn học để đánh giá giá trị của tác phẩm.

4 TN

4TN

2 TL

0

2

Viết

Viết đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ tự do

Yêu cầu:

Viết được đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ tự do (khoảng 300 chữ), nêu được chủ đề, dẫn ra và phân tích được tác dụng của một vài nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật được dùng trong tác phẩm.

* Nhận biết:

- Xác định được kiểu bài viết được đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ tự do.

- Giới thiệu tác giả, bài thơ.

- Bố cục đoạn văn được trình bày hợp lí, có mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.

* Thông hiểu:

- Xác định được cảm hứng chủ đạo của tác giả trong bài thơ.

- Nêu được chủ đề, tư tưởng, thông điệp của bài thơ dựa trên những yếu tố hình thức nghệ thuật.

- Chỉ ra được nét độc đáo của bài thơ thể hiện qua từ ngữ, hình ảnh, bố cục.

- Dẫn chứng là các hình ảnh, từ ngữ,… được trích dẫn từ văn bản.

* Vận dụng:

- Vận dụng các kĩ năng tạo lập văn bản để viết được đoạn văn ghi lại cảm xác về một bài thơ tự do.

- Khẳng định ý kiến, cảm nghĩ của người viết về bài thơ và đánh giá thành công nghệ thuật của bài thơ.

- Rút ra được thông điệp của tác giả được gửi gắm qua bài thơ.

* Vận dụng cao:

- So sánh với các bài thơ cùng đề tài; liên hệ với thực tiễn;

- Thể hiện được thái độ tôn trọng và học hỏi cách tiếp nhận của người khác trong đọc hiểu văn bản thơ.

- Sử dụng ngôn từ sáng tạo, linh hoạt.

1* TL

1* TL

1* TL

1* TL

Tổng

4 TN

1* TL

4 TN

1* TL

3 TL

1* TL

Tỉ lệ %

30%

30%

30%

10%

Tỉ lệ chung

60%

40%

5. Đề thi giữa học kì 2 Văn 8 Cánh diều - Đề 1

Ma trận đề thi giữa học kì 2 Văn 8 Cánh diều

TT

Kỹ năng

Nội dung/Đơn vị kiến thức

Mức độ nhận thức

Tổng

% điểm

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng

Vận dụng cao

TNKQ

TL

TNKQ

TL

TNKQ

TL

TNKQ

TL

1

Đọc hiểu

Truyện ngắn, truyện lịch sử/ Thơ Đường luật/

4

0

4

0

2

0

60

2

Viết

Phân tích một tác phẩm truyện/ Phân tích một tác phẩm thơ/ Nghị luận về một vấn đề của đời sống

0

1*

0

1*

0

1*

0

1*

40

Tổng

20

10

20

10

0

30

0

10

100%

Tỉ lệ %

30 %

30%

30%

10%

Tỉ lệ chung

60%

40%

Đề thi giữa học kì 2 Văn 8 Cánh diều

PHÒNG GD&ĐT …………

TRƯỜNG ………………….

(Đề thi gồm trang)

ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC II Môn: NGỮ VĂN 8

(Thời gian làm bài: 90 phút)

Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)

CÂU CHUYỆN CUỐI CÙNG

A Lềnh

Chiều hôm sau, đúng hẹn, nó cùng thằng Náng đi chơi rừng.

Mùa đông, trời mù sương, mưa phùn bay lất phất. Thằng Náng đi trước, Páo Tủa theo sát sau, hai thằng ưỡn ngực đi trông oách lắm. Thời tiết như thế này, cáo, cầy thường hay ra chỗ quang đãng vào tầm đó. Ngước nhìn lên sườn núi, hai thằng thấy một bụi rậm động đậy. Thằng Náng nói khẽ:

- Có con gì kìa!

Bụi rậm trở lại im ắng. Páo Tủa bảo:

- Chả có gì! Hoặc là lợn nhà người ta thả rông hoặc là đàn chim khướu tìm chỗ ngủ qua đêm! Mày thích thì lên mà xem!

Trong khi thằng Náng lò dò đi lên, thì Páo Tủa theo con đường mòn đi tiếp. Con đường mòn này sẽ dẫn vào dám ruộng hoang trong khe núi.

Chợt có một con chim đầu rìu xuất hiện trên đường. Con chim sặc sỡ, lộng lẫy quá! Nó khoác trên mình bộ lông màu xanh biếc hoà với màu đỏ chói. Cái lưỡi rìu dựng ngược trên lưng như con rồng đất. Páo Tủa doạ cho nó bay đi. Nhưng nó cứ nhảy nhót đằng trước, vừa nhảy, lại vừa như muốn đợi Páo Tủa. Chắc là mày muốn hi sinh rồi! Tao sẽ bắn làm mày bị thương nhẹ thôi, để tao còn mang về chơi. Páo Tủa lên cò súng, nhằm bắn, thì nó lại nhảy nhót từng bước phía trước như không có chuyện gì. Nó đột ngột dừng lại, nhìn lơ láo như đang suy tính điều gì. Páo Tủa nâng súng lên vai, mắt trái nhắm lại. Con chim tiếp tục nhảy nhót đi. Trêu ngươi nhau suốt một đoạn đường. Đến chỗ con đường hụt dốc xuống, nó dừng trong giây lát. Páo Tủa nâng ngay súng lên, ngón tay trỏ phải bắt đầu xiết cò, thì… brừ! Con chim bay vọt lên không trung xám một màu chì. Trước họng súng của Páo Tủa, bất thần xuất hiện một cái đầu trẻ con! Ối cha mẹ ôi! Không kịp nữa rồi! Đoàng oằng! Tai Páo Tủa như có vô vàn con côn trùng kêu rỉ rả giữa mùa hè trong khu rừng đại ngàn! Thằng oắt con giật bắn mình đổ vật xuống! Lần này thì chết thật rồi! Cha mẹ ôi! Chạy đằng nào cho thoát! Chỉ có chạy đằng giời! Páo Tủa đã quăng khẩu súng đi đâu mất, rồi từ từ khuỵu xuống, mồ hôi hột túa ra. Páo Tủa cảm thấy mình đang bốc khói nghi ngút, hơi thở và máu trong người đều đông cứng.

Thằng Náng xách một con khướu chạy đến. Nó cười cười nom đến ghét.

- Mày bắn được con gì đấy?

Páo Tủa nhổ toẹt một bãi nước bọt.

- Bắn bắn cái con khỉ!

- Hở! Mày bắn chết người à?

Páo Tủa dồn cơn bực tức vào cái khuôn mặt cười cười nhăn nhở trước mặt mình.

- Tao mà không nhanh tay ngóng nong súng lên trời, thì…. Nó hỏi một câu ngớ ngẩn:

- Nó chết chưa?

Páo Tủa định giáng một quả đấm vào mặt thằng Náng, nhưng đến nửa chừng thì kịp dừng lại. Thằng oắt con bị ngã té. Nó lồm cồm bò dậy đi về phía Páo Tủa và thằng Náng, hình như cú ngã làm nó xấu hổ, nên nó cười cười. Thằng Náng giữ thằng bé lại.

- Mày chưa chết à? Suýt nữa thì mày làm mỗi săn cho thằng này rồi! Đi đâu thế, nhóc con?

Thằng bé không hay biết gì việc Páo Tủa nhằm bắn nó. Nó hồn nhiên như không.

- Em đi tìm con lợn xổng ạ! Anh bắn được con chim! Giỏi quá!

Páo Tủa nhòm tận mặt thằng hằng bé xem nó sống lại như thế nào. Thiếu chút nữa là viên đạn của Páo Tủa đã găm đúng trán thằng oắt con rồi! Đầu óc Páo Tủa sáng dần ra.

- Đi đường trời mù sương, mày phải có một cây gậy dài, nhá! Nhất là đuổi lợn, lại càng cần phải có gậy dài, hay một cây sào! Ít ra thì cũng phải có một cành cây có lá để xua sương cho khỏi ướt quần áo! Nghe chưa? Đó là kinh nghiệm của những người đi đường rừng đấy!

Nó ngoan ngoãn:

- Vâng ạ, em nhớ rồi!

Chờ cho nó đi xa rồi, Páo Tủa mới tìm nhặt lại khẩu súng. Cái nòng súng ngậm đầy đất, và, đũng quần Páo Tủa cũng ngậm đầy bùn nhão. Páo Tủa càng phủi, bùn đất càng rây ra tay. May cho mày nhé, chưa phải đi ngồi tù, súng ạ! Thằng Náng đòi đi tiếp. Páo Tủa thì quay ngoắt về. Nó được con khướu, nên ham. Còn Páo Tủa được đầy một đũng quần bùn đất, nên ngao ngán. Cuối cùng đường về vẫn thắng thế.

Ngay ngày hôm sau, số đạn còn lại, Páo Tủa tháo hết đầu đem chia các-tút cho lũ trẻ con trong xóm chơi. Páo Tủa vẫn đủ kiên nhẫn để lau chùi khẩu súng thật cẩn thận, rồi đưa cho bố:

- Bố ơi! Con không thích chơi súng nữa đâu! Bố cất, hoặc bán đi. Nếu bán được tiền, bố mua cho con một cây khèn, bố nhá!

- Con làm sao thế? Chơi súng thì mắt mới tinh, chả nói thế là gì! Đòi chân tay mới nhanh nhẹn, con chả bằng được, giờ lại bỏ!

- Con không thích nữa! Có thế thôi! Con sẽ sắm một cây nỏ như thằng Náng là được rồi!

Không còn súng, Páo Tủa cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản biết bao.

Ước gì được nấy, một cây khèn đen bóng mà xuất hiện bên vách liếp. Trí tuệ, niềm tin yêu, thần tượng cao thượng của Páo Tủa đang ngồi khều bếp làm hoa lửa nổ lép bép, và nở một nụ cười.

- Ngày mai có một đoàn khách sẽ đến làng ta đấy! Khách du lịch ấy mà, toàn người phương Tây. Con trai ta sẽ lấy cây khèn ra mà trổ tài nhá. Tiếng khèn mới là lời mời bạn bè, mới là câu chuyện tâm giao làm cho những con người xa lạ đều hiểu nhau!

Páo Tủa chỉ còn biết lặng lẽ lau lại cây khèn cho thật bóng, và mang bộ quần áo khoác bóng như da trăn ra chuẩn bị, để ngày mai đón khách đường xa, đi bộ theo con đường mòn uốn lượn, đến với làng mình như một cuộc hành hương. Ngôi làng của Páo Tủa cheo leo, vắt vẻo trên sườn núi cao khuất trời mây, bởi có tiếng khèn mời gọi nên khách từ phương trời xa đang lũ lượt tới. Và lớn thêm chút nữa, Páo Tủa cũng sẽ mang tiếng khèn ra khỏi làng để khoe với bạn bè muôn phương.

4/2008

(Chuyện con suối Mường Tiên - NXB Kim Đồng, 2011)

Câu 1. Nhân vật chính trong truyện là ai?

A. Náng

B. Páo Tủa

C. Thằng bé

D. Bố của Páo Tủa

Câu 2. Đâu không phải là sự kiện có trong truyện?

A. Náng cùng Páo Tủa mang súng đi chơi rừng

B. Páo Tủa suýt bắn nhầm vào thằng bé

C. Páo Tủa đi gặp gia đình thằng bé xin lỗi

D. Páo Tủa quyết định không chơi súng săn

Câu 3. Từ nào sau đây là từ tượng hình?

A. Lồm cồm

B. Chuẩn bị

C. Ngoan ngoãn

D. Nhẹ nhõm

Câu 4. Dòng nào nêu đúng chủ đề của truyện?

A. Những thay đổi trong lao động sản xuất của người dân tộc miền núi

B. Những thay đổi trong thói quen săn bắn của người dân tộc miền núi

C. Những thay đổi trong suy nghĩ, nhận thức của người dân tộc miền núi

D. Những thay đổi trong tập quán sinh hoạt văn hoá của người dân tộc miền núi

Câu 5. Chi tiết nào thể hiện rõ nhất trạng thái sợ hãi cực độ của Páo Tủa?

A. Ối cha mẹ ôi! Không kịp nữa rồi! Đoàng oằng!

B. Tai Páo Tủa như có vô vàn con côn trùng kêu rỉ rả giữa mùa hè trong khu rừng đại ngàn!

C. Páo Tủa đã quăng khẩu súng đi đâu mất, rồi từ từ khuỵu xuống, mồ hôi hột túa ra.

D. Páo Tủa cảm thấy mình đang bốc khói nghi ngút, hơi thở và máu trong người đều đông cứng.

Câu 6. Câu nói: “Bố ơi! Con không thích chơi súng nữa đâu! Bố cất, hoặc bán đi. Nếu bán được tiền, bố mua cho con một cây khèn, bố nhá!” cho thấy Páo Tủa đã có sự thay đổi nào trong suy nghĩ?

A. Páo Tủa thấy được sự nguy hiểm và hậu quả nghiêm trọng khi dùng súng săn.

B. Páo Tủa thấy yêu thích cây khèn để học những bản nhạc hay.

C. Páo Tủa không muốn phải vất vả đi săn muông thú trong rừng cùng bạn nữa.

D. Páo Tủa thấy dùng súng săn mãi cũng chẳng bắn được thú rừng nào.

Câu 7. “Không còn súng, Páo Tủa cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản biết bao”. Chi tiết này cho thấy Páo Tủa là cậu bé như thế nào?

A. Cậu bé có lòng yêu thương, muốn bảo vệ động vật.

B. Cậu bé có suy nghĩ chín chắn, có tâm hồn nhân hậu.

C. Cậu bé có lòng yêu thương, biết lo lắng cho gia đình.

D. Cậu bé biết tính toán, rất sợ phải gánh trách nhiệm.

Câu 8. Nhận xét nào không đúng về nghệ thuật xây dựng truyện?

A. Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, gần gũi, mộc mạc.

B. Xây dựng tình huống truyện kịch tính, hấp dẫn.

C. Cách kể chuyện giàu hình ảnh, lời văn đậm chất thơ

D. Miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế.

Câu 9. Em hãy đặt lại nhan đề cho truyện và giải thích vì sao lại đặt như thế? (1,0 điểm)

Câu 10. “Ngôi làng của Páo Tủa cheo leo, vắt vẻo trên sườn núi cao khuất trời mây, bởi có tiếng khèn mời gọi nên khách từ phương trời xa đang lũ lượt tới. Và lớn thêm chút nữa, Páo Tủa cũng sẽ mang tiếng khèn ra khỏi làng để khoe với bạn bè muôn phương.”. Theo em, tác giả muốn gửi thông điệp nào qua đoạn kết của truyện? Trả lời trong khoảng từ 10 đến 12 dòng. (2,0 điểm)

II. Phần viết: 5,0 điểm

Đề: Phân tích văn bản Câu chuyện cuối cùng của Mã A Lềnh để làm rõ chủ đề của truyện ngắn.

Mời các bạn xem đáp án trong file tải về hoặc tại Đề thi giữa kì 2 Văn 8 Cánh diều - Đề 1

........................................

Để chuẩn bị cho kì thi giữa kì 2 sắp tới, các bạn học sinh cần thực hành luyện đề để làm quen với nhiều dạng đề khác nhau cũng như nắm được các dạng bài thường có trong đề thi. Mời các bạn tham khảo các đề thi giữa kì 2 lớp 8 mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 2 lớp 8 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn. Chúc các bạn ôn thi tốt.