2. Sự hình thành và phát triển của Công xã thị tộc
a) Văn hóa Sơn Vi
- Tìm thấy ở nhiều địa phương răng hóa thạch và nhiều công cụ đá ghè đẽo của Người tinh khôn tại Di tích văn hóa Ngườm (Võ Nhai - Thái Nguyên), Sơn vi (Lâm Thao - Phú Thọ).
- Sống trong hang động, mái đá, ven sông suối từ Sơn La, Lai Châu đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, sống thành thị tộc.
- Sử dụng công cụ đá ghè đẽo, săn bắt, hái lượm.
Công cụ chặt ở Nậm Tun (Lai Châu)
b) Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn: văn hóa sơ kỳ đá mới (6.000 - 12.000 năm).
- Sống định cư trong hang động, mái đá gần nguồn nước hợp thành thị tộc, săn bắt, hái lượm, trồng rau củ, quả.
- Người Hòa Bình ghè đẽo, mài lưỡi rìu, làm công cụ bằng xương, tre, gỗ, người Bắc Sơn biết mài rộng trên lưỡi rìu đá, làm đồ gốm.
- Cuộc sống vật chất và tinh thần được nâng cao.
c) Cách nay khoảng 5.000 - 6.000 năm
- Sử dụng cưa, khoan đá, bàn xoay, công cụ lao động được cải tiến, năng suất lao động tăng.
- Phần lớn các dân tộc đều bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa dùng cuốc đá.
- Dân số gia tăng, trao đổi sản phẩm, đời sống vật chất được ổn định, đời sống tinh thần được nâng cao.
=> “Cuộc cách mạng đá mới” ở nước ta.
- Địa bàn cư trú của các bộ tộc, bộ lạc được mở rộng ra nhiều địa phương trong cả nước.