Nhật Bản từ năm 1991 đến năm 2000

Từ đầu thập kỉ 90, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn của thế giới.


1. Kinh tế:

Từ đầu thập kỉ 90, lâm vào tình trạng suy thoái những vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế – tài chính lớn của thế giới (năm 2000, GNP là 4746 tỷ USD, GDP bình quân là 37408 USD).

2. Khoa học- kỹ thuật: tiếp tục phát triển ở trình độ cao. Năm 1992, phóng 49 vệ tinh nhân tạo, hợp tác với Mỹ, Nga trong các chương trình vũ trụ quốc tế.

3. Văn hóa: là nước phát triển cao nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa của mình, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.

4. Chính trị: 

Từ năm 1993 đến năm 2000, chính quyền ở Nhật Bản thuộc về các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau, tình hình xã hội Nhật Bản có phần không ổn định.

4. Đối ngoại

-  Tiếp tục liên minh chặt chẽ với Mỹ. Tháng 4-1996, Mỹ -Nhật tuyên bố kéo dài vĩnh viễn Hiệp Ước An ninh Mỹ- Nhật.

-  Học thuyết Miyadaoa (1-1993) và học thuyết Hasimôtô (1-1997), coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng đối ngoại trên phạm vi toàn cầu, chũ trọng phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á.

- Từ đầu những năm 90, Nhật nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị thế siêu cường kinh tế.

Bài giải tiếp theo
Nêu nội dung cơ bản của những cải cách dân chủ ở Nhật Bản trong thời kì bị chiếm đóng
Liên minh Nhật-Mĩ được biểu hiện như thế nào ?
Những nhân tố nào thúc đẩy sự phát triển “thần kì” của kinh tế Nhật Bản ?
Hãy nêu những khó khăn đối với sự phát triển kinh tế ở Nhật Bản
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong những năm 1973 - 1991 như thế nào ?
Nêu những nét cơ bản về tình hình kinh tế và chính trị của Nhật Bản trong thập kỉ 90 của thế kỉ XX
Những yếu tố nào khiến Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới vào nửa cuối thế kỉ XX ?
Khái quát chính sách đối ngoại của Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 2000

Video liên quan



Từ khóa