Nêu suy nghĩ của em về số phận của người nông dân trong truyện ngắn Lão Hạc lớp 8
1. Mở đoạn: - Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo.
Dàn ý chi tiết
1. Mở đoạn:
- Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,... Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo.
- Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lý mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc.
- Truyện ngắn "Lão Hạc" là một trong những tác phẩm tiêu biểu như thế!
2. Thân đoạn:
a) Cuộc đời – cảnh ngộ của Lão Hạc: Người nông dân nghèo khó, gặp nhiều bất hạnh:
+ Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.
+ Sống cô đơn trong tuổi già, đối diện với nhiều rủi ro: ốm nặng, yếu, không có việc, hoa màu bị bão phá sạch.
+ Có con chó vàng làm bầu bạn nhưng phải bán đi vì cảnh nghèo.
+ Luôn canh cánh thương con, vì chưa lo được cho con trọn vẹn.
+ Cùng đường, phải tìm đến cái chết thương tâm.
b) Cái chết của Lão Hạc: Là một biến cố điển hình để nhân vật bộc lộ tính cách điển hình:
+ Chết để tự giải thoát kiếp sống mòn.
+ Chết vì quá thương con, muốn giữ trọn vốn liếng cho con, giữ tiếng cho con.
+ Chết để tránh bị đẩy vào con đường tha hóa, biến chất.
+ Đau đớn tự trừng phạt vì đã bán con Vàng (đã đánh lừa nó)
+ Cái chết như một sự hi sinh tàn khốc vì tương lai, nó chứng tỏ sự bế tắc của hiện tại.
+ Minh chứng cho tấm lòng lương thiện.
+ Minh chứng cho nỗi bất hạnh và phẩm giá của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
3. Kết đoạn:
- Khái quát lại cảm nghĩ của bản thân về số phận của người nông dân trong truyện ngắn Lão Hạc.
Mẫu 1
''Lão Hạc" của Nam Cao ra mắt bạn đọc năm 1943. Câu chuyện về số phận thê thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả.
Lão Hạc - một con người nghèo khổ, bất hạnh. Ba sào vườn, một túp lều tranh vách nát, một con chó vàng là tài sản, vốn liếng duy nhất của lão. Vợ Lão Hạc mất sớm, sống trong cảnh gà trống nuôi con. Con trai lão không đủ tiền cưới vợ nên buồn phiền, phẫn chí đi làm phu đồn điền cao su, đã 5, 6 năm biền biệt chưa về. Vậy nên dân ta thường có câu "Cao su đi dễ, khó về" là vậy. Tuổi già cô quạnh, bất hạnh ngày càng chồng chất. Lão Hạc bị ốm một trận thập tử nhất sinh mà không một người thân bên cạnh đỡ đần, chăm sóc một bát cháo một chén thuốc khi ốm đau bệnh tật. Hoàn cảnh của Lão Hạc thật đáng thương. Sau trận bão, vườn tược, hoa màu bị phá sạch. Làng bị thất nghiệp nhiều, trong đó có Lão Hạc vì lão trở nên yếu hẳn sau khi ốm dậy, không ai còn muốn thuê lão làm nữa. Lão với cậu Vàng - con chó mà người con trai trước khi đi đã để lại cho lão, ăn uống mà vẫn đói deo, đói dắt, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc.
Ôi! Bao niềm xót xa, thương cảm đối với những con người nghèo khổ, bế tắc phải tìm đến cái chết như Chí Phèo tự sát bằng mũi dao, Lang Rận thắt cổ tự tử và Lão Hạc đã kết thúc cuộc đời mình bằng bả chó. "Nếu kiếp người đau khổ nốt thì ta nên làm gì cho thật sướng" - cái đau khổ tột cùng của Lão Hạc. Nam Cao đã thể hiện niềm cảm thông sâu sắc đối với số phận bất hạnh của những người nông dân trước cách mạng tháng 8.
Mẫu 2
Viết về số phận của người nông dân trước cách mạng tháng 8, Lão Hạc là một truyện ngắn đặc sắc của Nam Cao. Truyện ngắn chứa chan tình người, lay động bao nỗi xót thương trước cuộc đời bất hạnh và cái chết đau đớn của một lão nông dân nghèo khổ. Nhân vật Lão Hạc đã để lại cho chúng ta bao ám ảnh về số phận của con người, đặc biệt là người nông dân trong xã hội cũ.
Lão Hạc có số phận bất hạnh vô cùng. Sự khổ đau, bất hạnh của lão thể hiện ngay từ hình dáng đến cuộc sống của lão. Một ông lão già nua, bất hạnh vì phải chịu cảnh cô đơn, bệnh tật lại nghèo đói. Hoàn cảnh của lão Hạc vô cùng cực khổ.Vợ lão chết sớm, lão phải lâm vào tình cảnh gà trống nuôi con. Vậy nhưng con trai lão cũng bỏ lão mà đi làm tại đồn điền cao su. Lão Hạc cô đơn, buồn tủi với tuổi tác đã già chỉ biết bầu bạn với con chó Vàng. Chính hoàn cảnh khốn cùng ấy với hoàn cảnh neo đơn của lão đã khiến người đọc vô cùng xót xa, thương cảm. Cảnh sống nghèo khốn khó về vật chất và sự suy sụp về tinh thần khiến cho lão Hạc kiệt sức.Lão rơi vào cảnh bần cùng hóa. Không kiếm được việc làm, lại không có đủ sức khỏe, cô đơn lạc lõng, lão sống vật vờ qua ngày với con ốc, con trai, củ khoai, củ ráy, sung luộc...Cái kết của câu chuyện là một cái kết đầy đau xót đối với độc giả. Lão Hạc đã tìm đến cái chết. Sau cùng, con người khốn khổ ấy cũng tìm cho mình một lối giải thoát.
Lão Hạc, một cuộc đời đầy nước mắt, khổ đau, bất lực cho đến lúc mất đi nhưng luôn giữ trong mình bản chất lương thiện, hiền lành, nhân hậu. Đó cũng chính là thông điệp mà Nam Cao muốn truyền đến độc giả về bản chất của văn chương trong những sáng tác của ông.
Mẫu 3
Các tác phẩm về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám đã lên án gay gắt xã hội thối nát thời xưa, một xã hội điêu tàn, bất lương, luôn luôn dồn ép những người dân vô tội vào cảnh bần cùng khốn khổ. Truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là một trong những tác phẩm thành công nhất của đề tài này.
Câu chuyện là cuộc đời của một cụ già vô cùng khắc khổ. Lão khắc khổ từ hình dáng đến số phận của mình. Đó là một ông lão già nua, bất hạnh vì cô đơn, bệnh tật lại luôn bị sự đói nghèo dằn vặt. Vợ chết sớm, lão phải lâm vào cảnh gà trống nuôi con một thân một mình nhưng khốn thay, con trai lão do không chịu nổi sự khổ cực bần hàn, sự lạnh lùng, đen bạc đã xin đi phu đồn điền cao su. Cái chết của lão đã cho thấy sự thực ngòi bút của nhà văn dù có thương nhân vật đến đâu cũng không thoát khỏi cái quy luật mà xã hội cũ quá ư tàn nhẫn gây ra cho những người dân vô tội.
Qua truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta đã biết thêm được về số phận, cảnh đời của những người nông dân trong xã hội xưa nói chung và lão Hạc nói riêng. Lão Hạc chính là hiện thân cho một nhân cách cao đẹp trong cái bóng đêm bao trùm lên những người dân vô tội khốn khổ khi xưa.
Mẫu 1
Truyện ngắn Lão Hạc là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Truyện xoay quanh cuộc đời và số phận đau thương, khốn cùng của nhân vật lão Hạc, một lão nông hiền lành, chất phác, nghèo khổ, bất hạnh nhưng có tâm hồn đẹp, nhân cách cao thượng đáng trân quý.
Nam Cao đã rất thành công khi khắc họa đậm nét tính cuộc sống và tính cách nhân vật lão Hạc. Lão Hạc là một người nông dân bất hạnh, nghèo khổ, cùng quẫn nhưng không bị tha hóa, mà trái lại có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao thượng.
Vợ lão mất sớm, lão sống một thân một mình trong tuổi già cô đơn, vất vả. Lão chỉ có đứa con trai duy nhất để nương tựa. Con trai lão vì không có đủ tiền cưới vợ đã quẫn chí bỏ đi làm phu đồn điền. Thế là, lão sống thui thủi một mình, ngày ngày bầu bạn với cậu Vàng, con chó của lão. Tuổi già còm cõi vẫn phải lùi thủi làm thuê làm mướn kiếm ăn lần hồi. Nhưng rồi cuộc sống càng lúc càng khó khăn đẩy lão rơi vào hoàn cảnh bế tắc.
Cuối cùng thì lão Hạc chết. Lão chủ động tìm đến cái chết. Đó là một cái chết bi thảm, khốc liệt, nhưng là cái chết của một con người cao quý. Bởi qua cái chết này, tất cả những phẩm giá cao đẹp của lão ánh lên, chiếu sáng lòng người.
Lão Hạc chết chỉ vì một thứ duy nhất đó là lão muốn để lại mảnh vườn cho con trai lão mà thôi. Nghe ra có vẻ vô lí nhưng lại có lí theo tấm lòng của người cha hết lòng yêu thương con. Lão biết rõ “cao su đi dễ khó về”. Con trai lão đi rồi khó mà có ngày trở về với lão lắm. Nhưng dù không nhiều cơ hội nhưng lão vẫn tin tưởng nó sẽ về với lão. Vì thế, lão quyết định giữ mảnh vườn và dành dụm tiền từng ngày.
Lão giữ mảnh vườn để khi con trai lão về nó có nơi ở, có vườn để làm ăn, không xin xỏ ai. Làm dành tiền để con trai có cái mà xoay sở. Tiếp đến, lão cũng liệu cho cuộc đời mình. Tuổi già, bệnh đau, làm ăn khốn khó là ba kẻ thù của lão lúc này. Lão không hề sợ hãi nhưng một trận ốm đã quật đổ lão hoàn toàn. Lão vội vàng tính đến nước cuối cùng: tìm đến cái chết để bảo toàn mọi giá trị.
Dĩ nhiên là lão sẽ chết. nhưng chết như thế nào là một việc nan giải. Trong chuyện này, ta thấy lão hạc đã tính toán vô cùng kĩ lưỡng. Thật đáng sợ khi phải tính toán cho cái chết của mình. Thứ nhất: lão chết nhưng không ai biết vì sao lão chết. Thứ hai: lão sẽ chết trong chính ngôi nhà của mình. Thứ ba: cái chết của lão không làm phiền đến một ai.
Thế rồi lão âm thầm chuẩn bị cho hậu sự của mình. Đầu tiên, lão đem toàn bộ tiền bán chó và văn tự đất đai gửi cho ông giáo. Văn tự thì để ông giáo gửi lại cho con trai khi nó trở về. Còn tiền thì để lo mai táng cho lão khi lão qua đời. Kế đến, lão xin Binh tư, một tay chuyên ăn trộm trong làng, một ít bả chó. Lão nói dối, lão thấy có một con chó hay luẩn quẩn trong vườn nhà lão, lão muốn đánh bả nó rồi ăn chia với Binh Tư. Đó là lần nói dối đầu tiên, duy nhất và cuối cùng của lão hạc trong cuộc đời khốn khổ của mình.
Lão đã một mình ăn bả chó trong thầm lặng và khổ đau. Lão đã chết như một con chó, quằn quại và đau đớn. Lão chết một cách khốc liệt. Khi lão sống, cuộc sống chưa bao giờ dễ dàng đối với lão. Lúc lão chết, cái chết cũng chẳng dễ dàng gì hơn.
Nhà văn Kim Lân từng nói: “Lão Hạc không chỉ là một người nghèo, đó còn là một con người có nhân cách, tự trọng và bất khuất”. Chúng ta hoàn toàn đồng ý với Kim Lân. Nhất là cái chết của lão Hạc để lại cho chúng ta, cùng với nỗi xót thương vô hạn nhiều bài học quý.
Bài học sâu sắc nhất là giữa người với người phải có trách nhiệm với nhau hơn, phải tìm hiểu để đánh giá đúng và cảm thông với người khác hơn, phải tin tưởng ở con người và cuộc đời, và phải biết căm ghét xã hội bất công, những thế lực độc ác đã vùi dập, đầy đọa những người như lão Hạc.
Với truyện ngắn Lão Hạc, nhà văn Nam Cao đã để lại cho đời một nhân vật bất hủ và cũng để lại cho đời một cách ứng xử mang tính nhân đạo sâu sắc. Lão Hạc là điển hình cho lớp người cùng khổ trong xã hội thực dân phong kiến. Cuộc đời lão Hạc chứng minh một điều rằng dù trong hoàn cảnh khốn cùng như thế nào, dù phải nhận lấy cái chết, con người Việt Nam cũng luôn luôn gìn giữ thiện lương.
Mẫu 2
Nhắc đến Nam Cao- một cây bút hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam, chúng ta nghĩ ngay tới “Chí Phèo” nhưng nếu nói: Nam Cao – nhà văn của tình thương, ta nghĩ ngay tới “Lão Hạc”. Số phận cuộc đời và vẻ đẹp, tính cách của Lão Hạc chính là thông điệp về tình thương của tác giả.
“Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân trong xã hội phong kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943. Khi thực dân Pháp đã cơ bản hoàn thành xong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đem đến nhiều thay đổi, biến động cho xã hội Việt Nam. Người nông dân trong xã hội phong kiến đã chẳng dễ sống nay còn phải chịu cảnh “Một cổ hai tròng”. Nhân vật chính câu chuyện là người nông dân – người cha góa vợ, chỉ còn đứa con trai và chú chó Vàng được đặt trong cái nhìn của ông giáo. Vì phẫn chí không có tiền lấy vợ mà con lão bỏ đi đồn điền cao su, để lại mình lão với con chó. Lão coi Vàng như một người con trong nhà mà chăm sóc nhưng mất mùa, rồi lại đói kém, nhịn ăn không được lão quyết định bán Cậu Vàng và chọn cho mình cái chết vì không muốn phạm vào tiền để cho con. Câu chuyện là cái nhìn chân thực, đau đớn nhất về số phận bi thảm của người nông dân trong xã hội cũ, đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của tình yêu thương, lòng tự trọng và tình người.
Trước hết, Lão Hạc hiện lên là nạn nhân của cái nghèo, cái đói của xã hội cũ. Toàn bộ tài sản của người nông dân ấy chỉ có một mảnh vườn và con chó. Vì nghèo mà lão không có đủ tiền để lo đám cưới cho con, để đứa con phải phẫn chí đi làm xa. Cái nghèo khiến lão không làm tròn trách nhiệm của một người cha cần phải làm. Cái nghèo bắt lão phải sống cảnh cô đơn, hiu quạnh trong tuổi xế chiều. Rồi cái đói ập đến, nó khiến lão phải sống khổ sở. Mảnh vườn thì còm cõi, xơ xác chỉ đủ cho lão bòn mót. Lão phải làm thuê, làm mướn để đổi lấy miếng ăn nhưng chẳng thể so với người trẻ. Rồi lại một trận ốm làm “lão yếu đi ghê lắm. tiền bấy lâu dành dụm đều cạn kiệt”. Cái nghèo, cái đói còn bủa vây khiến có lúc lão phải thốt lên rằng: “Cái kiếp chỉ nhỉnh hơn kiếp một con chó”.
Lão Hạc còn là nạn nhân của những khổ đau. Vợ mất sớm, sợi dây tình cảm với người con trai cũng chẳng giữ được. Không thể làm tròn chức trách một người cha, để rồi mỗi lần nhắc về con là mỗi lần nước mắt lại rơi: “Thẻ của nó, người ta giữ. Hình của nó, người ta chụp rồi. Nó lại đã lấy tiền của người ta. Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là con tôi nữa?”. Chỉ còn mỗi con chó Vàng làm bạn, làm người thân. Nhưng còn gì đau đớn hơn khi phải bán đi chính thứ mình đã coi là một phần máu thịt, là con của mình. Đến cuối hành trình, vẫn là cái chết bi thảm và dữ dội: “Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại bị giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ rồi mới chết.” Lão đang ở đỉnh cao của sự hành xác. Làm sao quên được cái chết đau đớn ấy, khác nào cái chết của một con vật! Hiện tại thì tối tăm, tương lai thì mờ mịt và bế tắc. Liệu còn khì khổ đau hơn những điều người nông dân xưa phải chịu?
Như vậy, bằng tài năng của một cây bút văn học trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, tạo dựng chi tiết và tình huống bất ngờ, Nam Cao đã vẽ lên bức tranh số phận và vẻ đẹp của người nông dân trong xã hội đen tối qua hình ảnh cuộc đời lão Hạc.Bằng tác phẩm của mình, tác giả không chỉ tố cáo hiện thực mà còn thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình. Với ông, văn học chính là một loại hình của yêu thương mà mỗi tác giả phải là sứ giả của tình thương, mỗi tác phẩm là thông điệp của tình thương.
Bởi những giá trị và tầm tư tưởng ấy, “Lão Hạc” chưa và không bao giờ rời khỏi một góc yêu thương của người đọc mọi thế hệ.
Mẫu 3
Cùng với Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nam Cao là tác giả tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán, luôn hướng về người nông dân, phản ánh hiện thực đời sống của người nông dân trước Cách mạng. Truyện ngắn Lão Hạc là tác phẩm đặc sắc của Nam Cao, nó như một điểm son trong sự nghiệp sáng tác của ông.
Nam Cao luôn trăn trở về số phận của người nông dân lương thiện trong xã hội phong kiến. Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên là chân dung của một lão nông Việt Nam đáng thương và đáng kính. Số phận của Lão Hạc thật đáng thương bởi cái nghèo nàn, túng thiếu. Vợ mất sớm, lão dồn tình thương nuôi con khôn lớn. Khi đứa con trai đến tuổi lấy vợ, lão tính chuyện cưới vợ cho con, nhưng vì nghèo túng mà người ta lại thách cưới nặng quá nên con trai không cưới được vợ. Thất vọng, đứa con bỏ nhà ra đi làm phu đồn điền ở Nam Kì. Khi con đi rồi, lão cô đơn, sống trong hiu quạnh. Bấy giờ, chỉ có con Vàng là nguồn vui của lão. Cậu Vàng được lão chăm sóc chu đáo. Lão xem cậu Vàng như một đứa trẻ cần sự chăm sóc, yêu thương. Lão nhân hậu ngay cả với con chó của mình. Tội nghiệp cho số phận ông lão. Cuộc đời túng quẫn, nghèo khó cứ đeo đẳng bên ông. Vợ chết để lại mảnh vườn ba sào, nhưng lão nhất quyết không bán dù cho nghèo khó. Lão tự bảo: Cái vườn là của con ta ... của mẹ nó tậu thì nó được hưởng. Lão nghĩ vậy và làm đúng như vậy. Tất cả hoa lợi thu được lão bán để dành dụm riêng chờ ngày con về cưới vợ. Cảm thương cho ông lão đã vò võ trông con về làng, lão chắc mẩm thế nào đến lúc con lão về cũng có được trăm đồng bạc. Nhưng hy vọng chẳng có, thất vọng lại về, lão bị một trận ốm đúng hai tháng mười tám ngày, bao nhiêu vốn liếng dành dụm được đều sạch nhẵn. Sau trận ốm, người lão yếu quá, không làm được việc nặng, việc nhẹ thì người ta tranh hết, lão phải cầm hơi qua ngày bằng củ chuối, củ ráy, con ốc, con trai...
Vì không kiếm được tiền để sống, lại sợ tiêu lạm vào tiền của con nên lão quyết định tìm đến cái chết. Lão chết để con lão khỏi trắng tay. Thật cảm động biết bao về tấm lòng yêu thương bao la và đức hi sinh cao cả của một người cha khốn khổ! Số phận của lão thật bi thương. Nghèo đến nỗi phải bán đi con Vàng mà lão yêu thương, gắn bó. Kể lại việc bán chó với ông giáo, lão đau đớn xót xa: mặt lão đột nhiên rúm lại, những nếp nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra, cái đầu ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít, lão hu hu khóc... lão khóc vì thương chó, và cảm thấy mình là kẻ lừa dối khi bán cậu Vàng. Số phận của lão thật bi thương nhưng lão không đánh mất phẩm giá của mình. Đến bước đường cùng lão luôn nghĩ đến con mà chẳng nghĩ đến mình. Lão đủ can đảm để nghĩ đến chuyện kết thúc cuộc đời để không làm phiền đến ai. Lão từ chối mọi sự thương hại của người khác, cho dù đó là sự cưu mang chân tình. Ngay cả ông giáo, người hàng xóm gần gũi nhất và tin tưởng nhất, ông cũng từ chối sự giúp đỡ. Lão Hạc còn nghĩ đến cái chết không làm phiền lòng người khác. Lão nhịn ăn, tích góp được hai lăm đồng cộng với năm đồng bán chó, lão gửi ông giáo nhờ làm đám ma cho lão. Trước khi chết, lão còn nghĩ đến hạnh phúc của con. Lão viết văn tự nhượng mảnh vườn cho ông giáo để không ai còn mơ tưởng, dòm ngó đến, khi nào con lão về thì sẽ nhận vườn làm. Tuy lão nghèo khó, lại bị xã hội bỏ rơi nhưng lão vẫn giàu đức hi sinh, giàu tình thương và giữ vững phẩm chất cao đẹp của mình.
Hình ảnh Lão Hạc chết thật thê thảm. Lão mượn miếng bả chó để tự kết liễu đời mình. Tội nghiệp cho lão quá! Lão vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra... Cái chết đau đớn của lão đã làm sáng tỏ thêm phẩm chất cao đẹp của người nông dân hướng thiện. Tuy sống trong cái xã hội đầy bóng tối, nhưng tâm trí lão vẫn sáng ngời, tính cách của lão thật cao quý. Cả đời lão nghèo đói nhưng không làm mất đi tấm lòng đôn hậu, trong sáng của mình.
Với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, xen kẽ tự sự, Nam Cao đã gợi cho ta niềm cảm thương vô hạn đối với những người nông dân nghèo khổ. Ngòi viết của Nam Cao là tiếng nói cảnh tỉnh về một xã hội thiếu công bằng, không quan tâm đến người nghèo, chà đạp lên số phận của con người lương thiện.
Search google: "từ khóa + timdapan.com" Ví dụ: "Nêu suy nghĩ của em về số phận của người nông dân trong truyện ngắn Lão Hạc lớp 8 timdapan.com"