Sự tích ông Hoàng Mười

Bùi Thế Hiển
Admin 05 Tháng ba, 2018

Sự tích Thánh ông Hoàng Mười

Trong số Thập vị quan Hoàng, ông Hoàng Mười là người giáng trần để giúp dân phù đời. Vậy truyền thuyết về quan Hoàng Mười như thế nào? Mời bạn đọc cùng tham khảo bài viết dưới đây của Tìm Đáp Án để có thể hiểu rõ hơn về ông Hoàng Mười nhé.

Thân Thế Ông Hoàng Mười

Tên húy Ngài: Nguyễn Xí

Đền thờ chính: Hà Tĩnh, Nghệ An

Ông Hoàng Mười hay còn gọi là Ông Mười Nghệ An. Ông là con của Vua Cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh ông giáng trần để giúp dân phù đời. Về thân thế của ông khi hạ phàm thì có rất nhiều dị bản.

Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân. Vì thế, ông Hoàng Mười còn được nhân dân xứ Nghệ tôn vinh là “Đức thánh minh”, là một vị quan nằm trong hệ thống điện thần thờ mẫu tứ phủ ở Việt Nam.

Lại có một dị bản khác cho rằng ông giáng xuống trần là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, con trai Vua Lí Thái Tổ, cai quản châu Nghệ An.

Nhưng sự tích được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện: Ông Mười giáng sinh thành Nguyễn Xí, một tướng giỏi dưới thời Vua Lê Thái Tổ, có công giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao cho trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh (cũng chính là nơi quê nhà). Tại đây ông luôn một lòng chăm lo đến đời sống của nhân dân, truyện kể rằng có một lần xảy ra cơn cuồng phong làm đổ hết nhà cửa, ông liền sai quân lên rừng đốn gỗ về làm nhà cho dân, rồi mở kho lương cứu tế.

Sự tích ông Hoàng MườiSự tích ông Hoàng Mười

Trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh, thì lại có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam. Trong khi mội người đang thương tiếc cử hành tang lễ, thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ, khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã (có bản nói là xích điểu) và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về trời.

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là Ông Hoàng Mười (hay còn gọi là Ông Mười Củi) không chỉ vì ông là con trai thứ mười của Vua Cha (như một số sách đã nói) mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn), không những ông xông pha chinh chiến nơi trận mạc, mà ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương, không chỉ nơi trần thế mà các bạn tiên trên Thiên Giới ai cũng mến phục, các nàng tiên nữ thì thầm thương trộm nhớ. Sau các triều đại đã sắc tặng Ông Mười tất cả là 21 sắc phong (tất cả đều còn lưu giữ trong đền thờ ông).

Cùng với Ông Hoàng Bảy, Ông Hoàng Mười cũng là một trong hai vị Ông Hoàng luôn về ngự đồng, cũng bởi vì ông còn được coi là người được Vua Mẫu giao cho đi chấm lính nhận đồng (khác với Ông Bảy, những người nào mà sát căn Ông Mười thì thường hay hào hoa phong nhã, giỏi thi phú văn chương). Khi ngự về đồng Ông Mười thường mặc áo vàng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét vàng, cài chiếc kim lệch màu vàng kim.

Ông ngự về tấu hương rồi khai quang, có khi ông múa cờ xông pha chinh chiến, có khi lại lấy quạt làm quyển thư, lấy bút gài đầu để đi bách bộ vịnh phú ngâm thơ, có khi ông lại cầm dải lụa vàng như đang cùng người dân lao động kéo lưới trên sông Lam (quan niệm cho rằng đó cũng là ông kéo tài kéo lộc về cho bản đền) và ông cũng cầm hèo lên ngựa đi chấm đồng như Ông Bảy, người ta cũng thường dâng tờ tiền 10.000đ màu đỏ vàng để làm lá cờ, cài lên đầu ông. Khi ông ngự vui, thường có dâng đọi chè xanh, miếng trầu vàng cau đậu, thuốc lá (là những đặc sản của quê hương ông) rồi cung văn tấu những điệu Hò Xứ Nghệ rất mượt mà êm tai.

Tìm hiểu thêm về:

Đền thờ chính của ông Hoàng Mười:

Hiện nay có hai ngôi đền thờ Ông Hoàng Mười đó là Đền Củi tại xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh và Đền Ông Hoàng Mười tại Huyện Hưng Nguyên – Nghệ An. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia qua lung linh của dòng sông mơ mộng. Chúng ta cùng tìm hiểu về hai ngôi đền này.

Đền Chợ Củi (hay còn gọi là Đền Củi), được cho là nơi năm xưa di quan ông trôi về và hóa, qua cây cầu Bến Thủy, bên sông Lam, núi Hồng Lĩnh, thuộc xã Xuân Hồng; huyện Nghi Xuân; tỉnh Hà Tĩnh. Theo nhiều tài liệu cho rằng thì đền Củi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, còn Ông Hoàng Mười chỉ là phối thờ. Có thể thấy tại Đền Củi; cung cấm là thờ Tam Tòa Thánh Mẫu; còn cung Ông Hoàng Mười được đặt ở ngoài. Tuy vậy; Đền Củi vẫn đông đảo con nhang; đệ tử đến để lễ Ông Mười; bởi có lẽ đền Củi đã tồn tại đã lâu trong tiềm thức của người Việt Nam hơn đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được tôn tạo lại từ dấu tích hoang tàn trong thời gian gần đây.

Đền thờ ông Hoàng Mười tại đền Củi, Nghệ An
Đền thờ ông Hoàng Mười tại Đền Chợ Củi

Đền Ông Hoàng Mười tại Hưng Nguyên; Nghệ An cách đền Củi 2km theo đường chim bay và khoảng 6km theo QL1A. Hai ngôi đền chỉ cách nhau bởi dòng sông Lam nước xanh như mắt ngọc. Đứng bên đền bên này; có thể nhìn thấp thoáng đền bên kia. Và tại đền Ông Hoàng Mười Hưng Nguyên mới là đền lưu giữ đến 21 đạo sắc phong về Quan Hoàng Mười. Điều đó có thể minh chứng Đền Quan Hoàng Mười Hưng Nguyên mới được coi là đền thờ chính của Quan Hoàng Mười – Quan Trấn thủ Nghệ An.

Ngày 10/10 âm lịch hàng năm là ngày tiệc chính ông Hoàng Mười - Nghệ An:

Ngày ông giáng sinh 10/10 âm lịch được coi là ngày tiệc chính của ông, vào ngày này, du khách thập phương nô nức đến chiêm bái cửa đền ông thật là tấp nập, trải dải đến tận đôi bờ sông Lam, người ta dâng ông: cờ quạt bút sách… để cầu tài cầu lộc cũng là cầu mong cho con em được đỗ đạt khoa cử, thành tài để làm rạng danh tổ tông.

Thỉnh:

Chấn thủ Nghệ An ông Hoàng Mười

Vô chùa niệm phật Quan Âm

Phật ban bốn chữ: Minh – Tâm – Thiện – Tài

Trong thời học phép Như Lai

Đêm đêm luyện tập văn bài sử kinh

Tiêu dao đi dưỡng tang tình

Thơ tiên một túi sách phật kinh ngàn từ

Khi phong nguyệt lúc lại bi từ

Sớm xem hoa nở, tồi chờ trăng lên

Khi tiêu lĩnh lúc lại non bồng

Cành cây mắc võng dòng sông ngự thuyền

Thăng Long kén khách lâm thuyền

Nam thanh nữ tú mình quyền bóng ông

Phong quang đẹp ý ông Hoàng

Khác nào t nào thu cúc, xuân loan tứ tuần

Về huyện Kim Bảng làm quan Phủ Giầy

Hát sai:

Thỉnh bóng ông Mười hôm nay

Thỉnh bóng ông Mười đèn nhang khuya sớm

Sớm hôm phụng thờ, trong kinh có chữ nam mô

(Ông Mười đề thơ)

Đêm thanh ngoạn cảnh vườn đào

Bút tiên nghiên ngọc đề vào là thơ tiên

Bút phát linh linh bút sa tà tinh

Ông Mười đi thất bộ đề bài thơ Lý Đỗ

Độ cho trăm họ an lành

Ông cầm bút tiên ông họa vần thơ tiên

Họa ra bốn chứ Khang – Ninh – Thọ – Trường

Bút pháp linh linh rượu nhập thần

Hoa khai quả kết vạn cảnh xuân

Ông Mười giáng bút an muôn họ

Trăm họ ông ca cổ thánh thần

Thơ chuốc rượu:

Rượu đào xin ông Mười nhấp chén cho say

Trăm hoa giao kết mừng ngày tiệc vui

Tính tình tay tiên rót chen rượu đào

Dâng nhất tuần sớ, dâng lên cũng Mẫu

Dâng lên bệ ngọc

Các cô dâng mời rước ông Mười xơi

Á xơi rước ông Mười xơi

Dâng nhị tuần á tính tình tay tiên

Rót chén rượu đào dâng lên cũng mẫu

Dâng lên bệ ngọc

Các cô dâng mời là mời rước ông Mười xơi

Tam bôi rót chén rượu đào

Dâng lên cung Mẫu dâng lên Bệ Ngọc

Các cô dâng mời là mời rước ông Mười xơi

Á xơi rước ông Mười xơi

Ngâm thơ:

Đất lề quê thói Nghệ An có miếng trầu cau đậu

Để kính ông Hoàng Mười

Chí anh hùng ra tay dựng nước

Ông Mười đi tới đâu thì giặc phải tan ngay

Việt Nam còn ghi chép sử này

Cũng bao địa ngọc đêm ngày khói nhang

Khi hội nghị luận bàn việc nước

Ông Hoàng Mười mang tài thao lược để hiến dâng

Lĩnh sắc rồng ông Hoàng Mười khiển tướng điều quân

Gươm thiêng ba thước, ngựa hồng ông Hoàng Mười xông pha.

Ông Mười nhủ rằng các ghế có đi ngược về xuôi

Có biết đền thờ ông lập ở nơi mô

Đền thờ ông Mười lập ở chốn kinh đô

Qua cầu Bến Thủy bên bờ sông Lam

Cũng có khi ông lên ngàn xuống biển

Lúc trở ra về thì phủ tía lầu son

Cũng có khi ông Mười ngồi ngắm ánh trăng tròn

Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

Hò ơ ơ ơ hò

Đò từ Đông Ba đò qua Vĩ Dạ, đò từ Đầm Đá tới phủ Văn Lâu

Nghiêng nghiêng nắng ngả về chiều

Con đò nhỏ đưa ghế ông về ngắm cảnh Nghệ An

Sông Lam – Hồng Lĩnh đẹp như tranh

Tạo hóa xưa nay đã đắp thành

Muôn thủa núi sông còn bền vững

Đất Nam Đàn Nghi Lộc vẫn còn ghi

Vậy có thơ rằng:

Hoa đào rơi rắc lồi thiên thai

Xui tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi

Nữa năm tiên cảnh một bước trần ai

Ước cũ duyên tiên có thế thôi

Đá mòn rêu nhạt nước chảy hoa trôi

Cánh hạc bay lên vút tận trời

Ngõ hạnh vườn đào xa cách mãi

Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng soi.

Hò ông Mười:

Ơ Ơ Ơ chứ nói rằng trong đất Nghệ An có anh hùng hào kiệt, tiếng ông Mười lẫm liệt ngàn xưa, cũng có khi vung gươm lên ngựa đề cờ, ra tay gìn giữ cõi bờ Việt nam

Ơ Ơ Ơ cũng có khi ông Mười hội nghị luận bàn việc nước

Ông cũng đem tài thao lược để hiến dâng, lĩnh sắc rồng ông Mười hiến tướng, điều quân, gươm thiêng, ba thước ngựa hồng ông Mười sông pha

Ơ Ơ Ơ cũng có phen ông Mười lên rừng, xuống biển, khi chở ra về phủ tía lầu son, cũng có khi ông Mười ngồi ngắm bóng trăng tròn, khi xem hoa nở khi ông Mười ngồi chờ trăng lên

Ơ Ơ Ơ ông Mười nói rằng các ghế thanh đồng đã đi ngược về xuôi, có biết đền ông Hoàng Mười lập ở nơi đâu, đền thờ ngài lập ở kinh đô, gần cầu Bến Thủy bên bờ sông Lam

Ơ Ơ Ơ biết ông Mười ra ông cho núi ngọc lại non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng đổ ngoài biển đông

Ơ Ơ Ơ Biết ông Mười ra ông cho núi bạc non vàng, không biết đến ông Hoàng Thập dù có của cải ông cũng để nhỡ nhàng mặc ai

Ơ Ơ Ơ Ông Mười hỏi rằng dù ghế của ông có đi mô đi tê, nhớ ngày kỷ niệm phải về bắc ghế hầu ông

Ơ hò là hò ơi, trong xứ Nghệ vui nhất có chợ Vinh, đẹp nhất có cầu Bến Thủy, tối anh linh có đền ông Hoàng Mười

Ơ hò là hờ ơi, nước sông Lam vừa trong vừa đục gạo chợ chùa vừa trắng vừa trong, ngày hôm nay ông Mười loan giá về đông, điều lành điều dữ, ông phán cùng trần gian

Ơ hò là hò ơi, ngày hôm nay ghế con xin ông trăm năm nay đắc lộc sai tài, kim ngân sớ diệp để trình ngày hôm nay

Ơ hò là hò ơi, ông chít khăn điều mặc áo hoàng anh, phàm trần đố ai họa được bức tranh ông Mười ngồi

Ơ hò là hò ơi, biết ông Mười ra ông cho sung sướng cả cuộc đời, ông cho cầu lên ước được trong gia chung được thuận hòa.

Khi thanh nhàn ông Mười dạo cảnh sông Lam, Hoàng bắt các

O trong phủ ngâm thơ sông Lam ơ ơ ơ ơ hò ơ ờ hờ ơ ơ ơ ơ

Dòng sông Lam trăng nước lững lờ, yên tâm đón khách đưa về đất Nghệ An

Lâng lâng i i lâng lâng rũ sạch ba miền

Một ngày họ Trần được làm đệ tử, cũng lên duyên nợ nhiều

(Xanh xanh tỏa đá mới phủ rêu)2

Ai là người dày phúc mới được theo đức Hoàng Mười

Hò ơi, ơi hò, anh linh lưu dấu muôn đời (đúng đó) anh linh lưu dấu muôn đời, Nghệ An mở rộng đón những người hữu duyên, hò là hò ơi ơi hò.

Thuyền rồng còn đợi bến sông

Trở các thanh đồng đi lễ hội trong Nghệ An

Cho dù trăm nhớ ngàn thương

Vì đòng nên ông phải vấn vương nơi cõi trần

Hò Huế:

Nay ông Mười về giáng phúc trừ tai

Đồng gia tín chủ ai ai cũng thọ trường

Muối ba năm mối kia còn mặn, gừng chín tháng gừng vẫn còn cay

Ghế ông tình nặng nghĩa dày, xa xôi tận trong xứ Nghệ ông vẫn vô đây ông ngự đồng

Dòng sông Lam bên lở bên bồi

Dấu thiêng ông Mười để cho người đời phải khói nhang

Dù cho cách trở sông Lam

Ngày nay có cầu bến Thủy bắc ngang sang đôi bờ

Trăng bao nhiêu tuổi trăng già

Ghế ông năm nay bao nhiêu tuổi mà vẫ hào hoa đẹp như ngày nào

Ông đã chứng tâm tiếp lộc cho thanh đồng

Ông cho ghế ông cầu từ hôm nay nên cầu nên ước được

Cho gia chung được thuận hòa

Ông cho ghế ông buon bán gần xa

Ông tiếp lọc gần rồi lại tiếp lộc xa

Lý qua cầu:

Nghệ An danh nức danh ông Mười

Đai vàng khoác áo vàng anh, về đây ông ngự đồng

Lại được cung văn dâng lời ca tiếng thơ cung đàn

Cầu mong quan lớn chứng tâm độ cho dân chúng

Vui sông bình an giầu sang hết gian nan khỏi ách cơ hàn

Lý Mỹ Hưng:

Trong vùng khu tư ông Mười nức danh tiếng đồn

Cầm quân giết giặc giữ giang sơn nước Nam thanh bình

Giặc ngoại xâm hồn tan phách tán

Ông đi tới đâu chúng dân ra đón ông

Tiếng thơm ông Mười đời sau còn hương khói

Chúng con nguyện cầu ông an tài tiếp lộc

Đường vô xứ Nghệ quanh quanh qua cầu bến thủy ơi người ơi

Mười hai cô tố nữ theo hầu

Trâm hoa trâm hoa cài tóc khăn nhiễu tàu ông vắt vai

Đầu lược dắt chân dậm đôi văn hài

Cô cả dấng ông điếu ngự, ông bắt cô nàng hai đi theo hầu

Cô nàng ba gối xếp theo sau, đất lề quê thói

Cô tư têm trầu rước ông Mười xơi

Cô nàng năm dâng đóa gương soi

Còn cô nàng sáu đứng bên ngoài rót rượu hầu ông

Cô nàng bẩy dâng đóa hoa hồng

Còn cô nàng tám phò chiếc kiệu rồng rước ông Mười lên

Cô nàng chín yểu điệu ai tày, tiếng tiêu cô thổi làm đầy vơi lòng Hoàng

Cô nàng mười thắt dải lưng hồng hai tay dâng một đôi dày để hầu ông

Còn đôi cô múa lượn bài bông

Mười hai các cô tố nữ hầu giá đôi bên ông rõ ràng

Cờn:

Nghe thương hội nghị quần tiên

Được tin ông Mười tới thiên duyên trạnh lòng

Vân tiên mượn cánh chim hồng i i i

Xin người soi tỏ tức lòng gió giăng

Nhịp cầu ô đem bắc sông Ngan i i i

Cầu ô đem bắc sông Ngân, Hoàng ngồi trong cung quảng

Kìa ngồi trong cung quảng, đêm xuân mơ màng

Bóng trăng soi tỏ canh trường i i i

Đã cam tấc dạ tuyết sương reo hò

Thủy tiên dìu dắt đón mời i i i

Bấy lâu khao khát đầy vơi sao đành

Vượt bể đào lên tới ngàn xanh i i i

Đường xưa cảnh cũ nặng tình nước non

Trúc xinh cô quế cũng giòn i i i

Thơ đỗ bộ:

Cõi trần mở tiệc mừng vui đảng tiệc về

Nhớ đức Hoàng người giáng sinh

Họa vần tho kính chúng thánh minh

Phong hoa tuyết nguyệt phẩm bình mấy chương

Ngẫm câu thế sự vô thường i i i

Tấc son mượn nước cành dương tới nhuần

Vắng hoàng vắng cà mùa xuân i i i

Nhớ hoàng vì nước vì dân vì đời

Thế gian nhớ miệng hoàng cười, nhớ khăn hoàng chít, nhớ lời truyền ban

Khi phó cát lúc đồi ngang

Non kinh vó ngựa rậm ngàn tiêu giao

Đường đường cung kiếm anh hào

Túi thơ bầu rượu sớm chiều thênh thang

Hèo hoa trẩy hổi thiên hương i i i

Chấm đồng nhận lính khắp miền đông tây

Khi nương gió lúc lại se mây i i i

Khi rung khánh ngọc lúc lay chuông vàng

Hoàng về gối xếp ai mang i i i

Hèo hoa anh vác ngựa Hoàng ai trông

Lệnh truyền cô quế cô hồng i i i

Hèo hoa gối xếp đèn lồng mang tay

Lan lan huệ huệ xếp hàng

Dóng xe dóng ngựa lên đường vân du

Thuyền ai thấp thoáng chèo đưa i i i i

Kinh kỳ nhã nhạc hoàng về Nghệ An

Lệnh truyền bát vạn hùng binh

Kiệu vàng tám tía rước Hoàng về Nghệ An

Hy vọng bài viết này cung cấp thêm nhiều thông tin hữu ích về Tứ Phủ Quan Hoàng trong Đạo Mẫu Việt Nam, di sản văn hóa được UNESCO công nhận. Ngoài ra mời các bạn tìm hiểu thêm về Giới thiệu sơ lược về thân thế Thập nhị Thánh Cô trong Tứ phủ Thánh Cô


Nếu bạn không thấy nội dung bài viết được hiển thị. Vui lòng tải về để xem. Nếu thấy hay thì các bạn đừng quên chia sẻ cho bạn bè nhé!