Phân tích ý nghĩa của những tương phản trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ ở nhà giam trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

Truyện chỉ có 3 nhân vật: tử tù, quản ngục và thầy thơ lại, xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ. Qua đó, Nguyễn Tuân ca ngợi và khẳng định kẻ sĩ chân chính rất tài hoa, giàu khí phách hiên ngang, bất khuất, đến chết vẫn đề cao thiên lương.


   Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ ngôn từ, là một văn nhân tài tử. Trước cách mạng, tác phẩm “Vang bóng một thời” đã khẳng định bút pháp nghệ thuật tài hoa, uyên bác, độc đáo của Nguyễn Tuân. Là một trong số 12 truyện ngắn của “Vang bóng một thời” (1940), truyện “Chữ người tử tù” xứng đáng là một trang hoa, tờ hoa đích thực đem lại hương sắc cho đời.

   Truyện chỉ có 3 nhân vật: tử tù, quản ngục và thầy thơ lại, xoay quanh chuyện xin chữ và cho chữ. Qua đó, Nguyễn Tuân ca ngợi và khẳng định kẻ sĩ chân chính rất tài hoa, giàu khí phách hiên ngang, bất khuất, đến chết vẫn đề cao thiên lương.

   Truyện “Chữ người tử tù” thể hiện lối viết tài hoa của Nguyễn Tuân. Tình tiết, sự kiện, cảm xúc dồn nén như thắt lại lúc đầu để tạo hứng thú nghệ thuật cho đến phần cuối truyện khi cảnh cho chữ diễn ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên những tương phản nghệ thuật đầy ý nghĩa thẩm mĩ trong đoạn tả cảnh Huấn Cao cho chữ quản ngục trong nhà giam.

   Chữ Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, là “một vật báu trên đời”. Huân Cao không vì vàng bạc hay quyền thế mà “ép mình viết bao giờ". Nhất sinh ông mới viết 2 bộ tứ bình và một trung đường cho ba người bạn thân. Quản ngục, một kẻ "biết đọc vở nghĩa sách thánh hiền” ao ước một ngày kia có một câu đối do tay ông Huấn Cao viết để “treo ở nhà riêng mình”. Lần gặp gỡ thứ nhất trong nhà giam, quản ngục đã bị Huấn Cao nặng lời gần như xua đuổi: “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Thế mà cuối cùng cảnh cho chữ lại diễn ra. Huấn Cao đã “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của quản ngục, ngạc nhiên về “những sở thích cao quý” của “kể tiểu lại giữ tù”. Và ông đã xúc động nói: “Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".

   Những tương phản trong cảnh cho chữ được thể hiện đầy ấn tượng. Kẻ xin chữ là ngục quan, người đang giữ “phép nước”. Người cho chữ lại là một tử tù sắp bước lên đoạn đầu đài. Kẻ làm nghề “nhem nhuốc” lại thích chơi chữ, một sở thích cao quý”. Người “đi làm giặc” có tài “bẻ khóa và vượt ngục” lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” lừng danh trong thiên hạ. Trong quan hệ xã hội, Huấn Cao quản ngục là đối địch, đứng về “hai trận tuyến” nhưng trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm, tri kỉ. Một cuộc kì ngộ ít thấy trên đời.

   “Thư pháp” là một thứ nghệ thuật cao sang. Phải là văn nhãn tài hoa, tài tử mới có chỗ đứng ở “thư pháp”. “Thư pháp” vốn chỉ diễn ra ở đài các, viện sảnh, chốn thư phòng, nơi sang trọng, có bao giờ diễn ra nơi chết chóc, tối tăm, bẩn thỉu? Về thời gian, cảnh cho chữ không diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật mà lại diễn ra giữa đêm khuya “bí mật”, lúc trại giam tỉnh Sơn “chí còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”, về không gian, nơi Huấn Cao viết bức châm tặng quản ngục lại là phòng giam tử tù “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tương phản với cái tối tăm, hôi thối ấy là “ánh sáng đỏ rực” của một bó đuốc tẩm dầu, là màu “trắng tinh” của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ căng phẳng trên mảnh ván, là “mùi thơm” của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ căng phảng trên mảnh ván, là “mùi thơm” ở chậu mực bốc lên. Qua đó, ta thấy kẻ sĩ mọi thời dù trong bất kì cảnh ngộ éo le nào cũng vẫn hướng về ánh sáng và cái thanh quy để giữ lấy sự trong sáng, thanh cao của tâm hồn.

   Thơ lại gầy gò “run run” bưng chậu mực. Ngục quan “khúm núm” cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiểng”, lúc thì “tô đậm nét chữ”, lúc thì “thay bút con, để lạc khoản”, rất ung dung tài hoa, viết nên những nét chữ “vuông vắn rõ ràng”, một báu vật để lại cho đời. Hình ảnh tử tù “thở dài” đỡ ngục quan đứng thẳng dậy, đĩnh đạc vá chân tình khuyên ngục quan “thay chỗ ở đi”, tìm về quê nhà mà ở đã rồi hãy tính đến chuyện chơi chữ, để giữ lấy “thiên lương cho lành vững”. Hình ảnh ngục quan vái tử tù một vái, nước mắt ứa ra, là điểm đỉnh của cảnh cho chữ. Những tương phản này mang một ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc. Nghệ sĩ có thể bị hãm hại, nhưng cái đẹp do nghệ sĩ sáng tạo ra mãi mãi bất tử trong lòng người Huấn Cao cho đến chết vẫn bất khuất hiên ngang, vẫn nêu cao thiên lương.

   Trong “lửa đóm cháy rừng rực”, hình ảnh Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại “nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”, ta cảm thấy cái đẹp của nghệ thuật, của thiên lương đang lung linh tỏa sáng tâm hồn họ! Phải chăng Huấn Cao đã viết bức châm này, câu đối này để tặng ngục quan trước khi bước ra pháp trường “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm. Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” ?

   Truyện “Chữ người tử tù” được Nguyễn Tuân sáng tạo nên bằng bút pháp lãng mạn chủ nghĩa. Tác giả đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản, làm nổi bật sự đối lập gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác lí tưởng và hiện thực, tính cách và hoàn cảnh... Cảnh cho chữ là cảnh chói sáng nhất trong truyện “Chữ người tử tù”. Ta cảm thấy được sống lại, được mục kích một cảnh tượng cổ kính, thiêng liêng về viết câu đối của ông cha đang diễn ra trước mắt mình. Hình ảnh Huấn Cao lồng lộng và ngạo nghễ biết bao: “Phút cuối cùng chói lọi khối sao băng!’’.



Bài giải liên quan

Bài học liên quan

Từ khóa phổ biến