Phân tích Hịch tướng sĩ

Năm 1285, Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Trước đó, tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần trao trọng trách “Tiết chế thống lĩnh".


Mẫu 1

Lời giải chi tiết:

Năm 1285, Thoát Hoan mang 50 vạn quân sang xâm lược nước ta. Trước đó, tại Hội nghị quân sự Bình Than, Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần trao trọng trách “Tiết chế thống lĩnh". Ông đã viết “Hịch tướng sĩ” kêu gọi ba quân nâng cao cảnh giác, học tập binh thư, rèn luyện võ nghệ, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng quân xâm lược phương Bắc. Có thể xem “Hịch tướng sĩ” là một văn kiện lịch sử trọng đại hàm chứa tình cảm yêu nước và khí phách anh hùng, đồng thời mang tính nghệ thuật độc đáo, xứng đáng là một kiệt tác trong nền văn học cổ Việt Nam. Vì thế khi nhận xét về tác phẩm này có ý kiến cho rằng “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn là văn sôi sục nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng. Đó là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên – Mông.

“Hịch tướng sĩ” là tiếng nói của vị Thống soái sục sôi nhiệt huyết. Cái lo buồn, nỗi căm giận, niềm khao khát của Trần Quốc Tuấn thể hiện trong bài hịch sục sôi một bầu máu nóng. Mối quan hệ của vị Quốc công với tướng sĩ là mối quan hệ “chủ – tớ” nhưng chứa chan tình nghĩa, đồng cam cộng khổ, vào sinh ra tử có nhau: “… lúc mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười”.

Trước sự hoành hành của sứ giặc, trước họa xâm lăng của đế quốc Nguyên – Mông, ông mang một tâm trạng cay đắng, thao thức suốt những đêm dài. Tâm trạng ấy của ông là cả một bầu nhiệt huyết sôi sục: “Huống chi, ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau”.

Bằng một nhãn quan chính trị sâu sắc, cảnh giác, vị Tiết chế đã vạch trần dã tâm của bọn bành trướng phương Bắc muốn biến nước ta thành quận huyện của chúng, lên án hành động vơ vét của kho, “đòi ngọc lụa ” “thu bạc vàng ” để thỏa lòng tham không cùng của lũ sứ giặc Mông Cổ. Ông nhắc tướng sĩ không được khoanh tay, ngồi nhìn giặc lấn tới, vì như thế “Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao khỏi để tai vạ về sau”

Phần cuối bài hịch, là lời khuyên răn, trách cứ tướng sĩ về việc học tập binh thư cũng sục sôi nhiệt huyết sáng ngời đạo “thần – chủ ” và lập trường “nghịch thù”. Giọng văn hùng hồn, trang nghiêm, cảm hóa lòng người sâu sắc: “Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù”

“Hịch tướng sĩ” còn là một tác phẩm tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thắng được thể hiện ở thái độ căm thù giặc, quan niệm sống và chết, nô lệ và tự do,… Ở khía cạnh nào, biểu hiện nào, tác giả cũng biểu lộ một chí khí anh hùng, lẫm liệt và quyết chiến quyết thắng!

Với lũ giặc Nguyên – Mông thì quyết không thể dung tha! Hiện tại chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù thì đau đớn vô cùng: “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa”. Với lũ giặc Nguyên – Mông, tướng sĩ chỉ có một quyết tâm, một hành động, một ý chí: “Dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.”

Vì Tổ quốc Đại Việt muôn quý nghìn yêu mà tướng sĩ chỉ có một con đường, một hành động “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên khiến cho người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bê được đầu Hốt Tất Liệt ở của khuyết làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai…”.

Vì Tổ quốc Đại Việt nên không thể mất cảnh giác và chiến bại, để đến nỗi “ta cùng các ngươi sẽ bị giặc bắt, đau xót biết chừng nào” không những thế “ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận..”

Vì sự sống còn và niềm vinh quang của dân tộc mà quyết tâm đánh thắng giặc Nguyên – Mông để “tông miếu … được muôn đời tế lễ “, “tổ tông… được thờ cúng quanh năm “, để tên họ tướng sĩ “sử sách lưu thơm”. “Hịch tướng sĩ” truyền đến ba quân khí thế, tinh thần quyết chiến quyết thắng, biến thành sức mạnh Sát Thát đưa đến những thắng lợi, những chiến công giòn giã: “Chương Dương cướp giáo giặc – Hàm Tử bắt quân thù (Trần Quang Khải) bảo toàn sơn hà xã tắc.

Có thể nói “Hịch tướng sĩ” là một tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất của thời đại chống Nguyên – Mông. Thế kỉ XII, XIII trên một vùng địa lý mênh mông, hàng chục quốc gia, hàng trăm thành trì từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam, từ Trung Á tới sông Vônga,… đã bị vó ngựa quân xâm lược Mông cổ giày xéo, nghiền nát. Một nhà thơ Ác-mê-ni trong thế kỉ XIII đã viết:

“Không còn một dòng suối, một con sông nào

không tràn đầy nước mắt chúng ta;

Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào

không bị quân Tác-ta giày xéo”.

Quân Tác-ta là đoàn kị binh của đế quốc Mông Cổ. Thế mà, cả ba lần, giặc Nguyên – Mông sang xâm lược nước ta đều bị đại bại thảm hại. Quân dân Đại Việt đã đoàn kết một lòng, từ vua tới tướng sĩ đều nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng. Vai trò của Trần Quốc Tuấn là cực kì to lớn: “Tiếng thơm đồn mãi – Bia miệng không mòn” (Đằng giang phú).

Các tướng sĩ đời Trần có một số là anh hùng – thi sĩ như Trần Quang Khải, Phi Ngũ Lão, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông cũng là những vua anh hùng – thi sĩ. Thơ văn của họ chứa chan tinh thần yêu nước:

“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá

Non sông nghìn thuở vững âu vàng

(Trần Nhân Tông)

“Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy nghìn thu”

(Trần Quang Khải)

Các bài thơ này đều tiêu biểu cho “Hào khí Đông A". Nhưng như đã phân tích ở trên, nội dung và tác dụng to lớn và sâu sắc của “Hịch tướng sĩ” nó xứng đáng là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước cao đẹp nhất thời đại chống Nguyên Mông.

“Hịch tướng sĩ” cùng với các chiến công như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng - đã gắn liền với tên tuổi vị anh hùng Trần Quốc Tuấn, làm sáng ngời sử sách. Nó khúc tráng ca chống xâm lăng. Nó tiêu biểu cho khí phách anh hùng, tư thế hiên ngang, lẫm liệt của đất nước và con người Đại Việt.

Sống trong tư thế hiên ngang! Biết nhìn xa trông rộng, cảnh giác trước âm mưu thâm độc của mọi kẻ thù! Chết vinh còn hơn sống nhục trong kiếp ngựa trâu! v..v… Đó là những tư tưởng lớn nhất, bài học sâu sắc nhất mà Trần Quốc Tuấn muốn bày tỏ với tướng sĩ, với nhân dân ta, với mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại qua “Hịch tướng sĩ”.

Trong bài “Bạch Đằng giang phú“, Trương Hán Siêu đã viết: trận Bạch Đằng mà đại thắng – Bởi Đại Vương coi thế giặc nhàn”. “Thế giặc nhàn” là thế giặc dễ đánh thắng! Đó là một câu nói bất hủ của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – người anh hùng vĩ đại của dân tộc ta.

Đã trải qua hơn 800 năm nhưng “Hịch tướng sĩ”mãi là bài ca yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Đó là áng văn chính luận, hùng hồn đanh thép, sục sôi nhiệt huyết, tràn đầy khí thế quyết chiến quyết thi mang sức mạnh của muôn vạn hùng binh. Mỗi lần đọc lại tác phẩm, lòng em lại có cảm xúc tự hào về truyền thống cha ông, truyền thống yêu nước quật cường, khí phách hiên ngang lừng lẫy.



Mẫu 2

Lời giải chi tiết:

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc văn võ toàn tài. Tên tuổi ông gắn liền với Binh thư yếu lược, Hịch tướng sĩ và chiến công Bạch Đằng bất tử.

Trần Quốc Tuấn được vua nhà Trần cử giữ chức Tiết chế thống lĩnh lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông.

Hịch tướng sĩ được Trần Quốc Tuấn viết vào năm 1282 và trước hội nghị quân sự Bình Than của các vương hầu. Đó là một luận văn quân sự nổi tiếng trong lịch sử dân tộc, là lời kêu gọi chiến đấu quyết tâm đánh thắng quân xâm lược để bảo vệ sơn hà xã tắc của ông cha ta hơn bảy trăm năm về trước từng làm sôi sục lòng người. Có ý kiến cho rằng: Hịch tướng sĩ là khúc tráng ca anh hùng sáng ngời hào khí Đông – A.

Đông – A là khái niệm mà các nhà lịch sử dùng để chỉ triều đại nhà Trần(1226-1400), hào khí nghĩa là chí khí hào hùng, chí khí anh hùng. Câu nói trên nhằm ca ngợi Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca sáng ngời chí khí hào hùng, chí khí anh hùng của Đại Việt trong triều đại nhà Trần. Bài hịch đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông, thể hiện lòng căm thù giặc sôi sục, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân trên chiến địa để bảo vệ sơn hà xã tắc.Hào khí Đông-A tỏa sáng trong Hịch tướng sĩ chính là lòng yêu nước

nồng nàn, khí phách anh hùng lẫm liệt của tướng sĩ nhà Trần và nhân dân ta trong thế kỉ XIII đã ba lần đánh giặc Nguyên – Mông.

Hịch tướng sĩ là một khúc ca, bởi lẽ trước hết Trần Quốc Tuấn đã nêu cao gương sáng các bậc trung thần nghĩa sĩ, những mẫu người lí tưởng của chế độ phong kiến đã xả thân vì lòng trung quân ái quốc. Đó là Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh... đã bỏ mình vì nước, thoát khỏi thói nữ nhi thường tình trở thành vĩ nhân lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ.

Hịch tướng sĩ là bản hùng ca của Đại Việt sáng ngời hào khí Đông- A. Nó thể hiện một tầm nhìn chiến lược, thấy rõ tim gan đen tối, dã tâm của quân giặc phương Bắc, tham lam tàn bạo cực độ, của âm mưu biến nước ta thành quận, huyện của chúng. Sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, coi kinh thành Thăng Long như lãnh địa của chúng. Lòng tham vô đáy, lúc thì chúng thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, lúc thì giả hiệu Vân Nam Vương mà thử bạc vàng, để vét của kho có hạn. Chúng là cú diều, là dê chó, là hổ đói rất bẩn thỉu, tham lam, độc ác, phải khinh bỉ và căm ghét tận xương tủy, phải tiêu diệt!

Hịch tướng sĩ là tiếng nói căm giận bốc lửa quyết không đội trời chung với lũ giặc Nguyên – Mông. Nó là khúc tráng ca chứa chan tinh thần yêu nước, biểu lộ khí phách của anh hùng Trần Quốc Tuấn quyết chiến quyết thắng quân xâm lược, nguyện xả thân trên chiến trường để bảo vệ Tổ quốc Đại Việt: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Có thể nói, đây là đoạn văn hay nhất, hùng tráng nhất trong Hịch tướng sĩ thể hiện một cách tuyệt vời hào khí Đông - A.

Hịch tướng sĩ là một áng văn chính luận đanh thép nhất, hùng biện nhất thể hiện chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt sáng ngời hào khí Đông - A. Trần Quốc Tuấn đã nói với tướng sĩ đời Trần về nhục và vinh, thắng và bại, mất và còn, sống và chết, khi vận mệnh Tổ quốc lâm nguy. Mất cảnh giác, chỉ biết hưởng lạc như: lấy việc chọi gà làm vui đùa, ..., lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển,(...) lo làm giàu mà quên việc nước, ham săn bắn và quên việc binh, chỉ thích rượu ngon,mê tiếng hát,... thì bại vong là tất yếu. Nếu có giặc Mông Cổ tràn sang thì ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào? Bại vong là thảm họa.

Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn, chẳng những xã tắc tổ trong ta bị giày xéo mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên, chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ không rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận.

Thân làm tướng, kẻ nam nhi trong thời loạn phải biết lo khi nhìn chủ nhục, phải biết thẹn khi thấy nước nhục, phải biết tức khi thấy nước nhục, phải biết tức khi phải hầu quân giặc, phải biết căm khi nghe nhạc Thái thường để đãi yến ngụy sứ!

Thân làm tướng phải cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu: huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Đó là quyết chiến quyết thắng, là vinh quang.

Hịch tướng sĩ sáng ngời hào khí Đông-A, nó có tác dụng khích lệ, động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Nguyên- Mông. Hịch của vị Tiết chế Quốc công như tiếng kèn xung trận vang dội núi sông. Nó đã góp phần không nhỏ tạo nên sức mạnh của đoàn dũng sĩ Sát Thát lập nên bao chiến công oai hùng như Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng Giang,...

Hịch tướng sĩ đã phản chiếu sáng ngời hào khí Đông-A qua những tấm gương đầy khí phách lẫm liệt. Là tiếng nói sắt đá vang lên trong những giờ phút hiểm nghèo: Nếu bệ hạ muốn hàng, xin chém đầu thần trước đã! Là tư thế lẫm liệt hiên ngang của Trần Bình Trọng: Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Là chí khí anh hùng của Trần Quốc Toản: phá cường địch, báo hoàng ân. Là dũng khí của Phạm Ngũ Lão với đạo quân phụ- tử chi binh trăm trận trăm thắng:

Múa giáo non sông trải mấy thâu,

Ba quân hùng khí át sao ngưu.

(Thuận hoài – Phạm Ngũ Lão)

Tóm lại, Hịch tướng sĩ là tác phẩm lớn nhất, tráng lệ nhất,biểu hiện tinh thần yêu nước của văn học đời Trần. Qua bài hịch, ta càng thêm ngưỡng mộ và biết ơn vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn. Hịch tướng sĩ, còn có tác dụng to lớn, sâu sắc bồi dưỡng lòng yêu nước, khí phách anh hùng, tinh thần tự lập tự cường cho thế hệ trẻ Việt Nam.


Mẫu 3

Lời giải chi tiết:

Trước cuộc xâm lược của quân Mông - Nguyên lần thứ hai (1285), tình hình giao thiệp giữa chúng và nước ta rất căng thẳng. Bọn sứ giả trịch thượng, nghênh ngang, yêu sách đủ điều. Thời kỳ hoãn binh không kéo dài được nữa. Phải chuẩn bị gấp rút hơn.

Trần Quốc Tuấn thấy tình hình tướng lĩnh chưa được sẵn sàng, soạn ra cuốn Binh thư yếu lược là một cuốn sách nói những điều cốt yếu về chiến lược, chiến thuật quân sự, rồi viết bài hịch này đế khuyên răn các tướng lĩnh nhận rõ tình hình bấy giờ, ra sức nghiên cứu binh thư, rèn luyện võ nghệ, chuẩn bị chống giặc. Bài hịch, do đó, coi như là một bài mở đầu cho việc phổ biến cuốn sách kia. Không thấy đâu chép thời điểm sáng tác bài văn, nhưng căn cứ vào nội dung thì phải một thời gian trước khi quân Mông - Nguyên xâm lược lần thứ hai.

Hịch là một thể văn kêu gọi chiến đấu. Nó không theo công thức nào. Nó là một bài chính luận. Thường dùng văn xuôi, có khi dùng văn biền ngẫu. Đế kêu gọi thành công, phải nêu lý lẽ xác đáng nhưng chủ yếu nhằm chinh phục tình cầm. Bài hịch hay thường đậm chất trữ tình. Văn học của ta không nhiều bài hịch lắm.

Nêu gương xả thân vì việc nghĩa của người xưa và của người đương thời, vạch ra tình hình Tổ quốc đang gặp hiểm nguy, bị đe dọa… xâm lược, rồi liên hệ phê phán thái độ cầu an hưởng lạc của tướng lĩnh, thức tỉnh họ về trách nhiệm cứu nước. Trần Quốc Tuấn, với tư cách là vị chủ soái nói với cấp chỉ huy dưới trướng mình, đã lấy tâm trạng mình trò chuyện với họ, thuyết phục họ bằng con đường tình cảm, động viên họ học tập, rèn luyện, giáo dục quân sĩ để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng, tất cả nhằm bộc lộ một tấm lòng yêu nước thiết tha, một mối thù giặc sâu sắc và một chí quyết thắng sắt đá.

Bắt đầu phần 1 tác giả nói: Ta thường nghe. Mỏ" lời như vậy là muốn nói một câu chuyện tâm tình. Chuyện ta thường nghe, thường học tập. Nay ta đem trao đổi với các ngươi đề" các ngươi cùng nghe, cùng suy nghĩ.

Xưa nay có biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ hành động không tiếc thân mình. Kẻ cứu vua, người trả thù cho chủ, kẻ mắng giặc dữ, người chống giặc mạnh… Tác giả kể một hơi sáu người đời xưa, và khi thấy người nghe mình không lấy làm tin thì dẫn luôn bốn gương đời nay.

Trước sau có đến mười người. Nói cho đúng, hành động của họ đều đáng khen, nhưng cái nghĩa lớn mà vì nó họ hy sinh, xét ra không quá một cá nhân, chưa kể trong số mười người ấy có hai tên xâm lược, chỉ có hai người thật sự vì nước nhà mà chống giặc. Tuy vậy tác giả đều cho họ vì nước bỏ mình, họ là những bề tôi bậc tháp mà trung nghĩa sáng ngời, lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ, nhân dân còn đội ơn, đến nay còn lưu tiếng tốt.

Chỉ vì họ không theo thói nữ nhi thường tình, không chịu chết già ở xó cửa, mà dám hi sinh, dám đường đường chống giặc đông gấp trăm lần mình, dám xông vào chỗ làm trướng, xa xôi nghìn trùng. Người xưa, thôi không nói làm gì. Nhưng những người gần đây, nào họ có gì đặc biệt, họ cũng chỉ là những cấp chỉ huy bình thường. Họ lập được những thành tích đáng ngợi khen, thì tại sao các ngươi lại không làm được?

Như phần 1 đã nói, là trung thần nghĩa sĩ phải dám xả thân như mười người trên kia. Huống chi tình hình đất nước hiện nay đang hiểm nghèo biết mấy!

Đất nước đâu phải buổi thanh bình. Ta cùng các người sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Đó là nói thật. Năm 1258 quân phong kiến Mông cố đã xâm lược nước ta lần thứ nhất. Chúng bị ta đánh bại. Nhưng trong suốt hai mươi bảy năm từ đó đến cuộc xâm lược lần thứ hai năm 1285, chúng không hề đế ta yên, mà càng ngày càng ngang ngược. Sự thật ấy là nỗi đau xót chung của đất nước, của ta cùng các ngươi.

Nay thì cảnh tượng hàng ngày đang xảy ra, ta không thể nhắm mắt không ngó thấy sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, dám sỉ mắng triều đình, dám bắt nạt tể phụ mà chúng là thứ gì, chỉ là quân dè chó, cú diều mà thôi. Chúng lại lấy thế, thằng nọ thằng kia đòi ngọc lụa, bạc vàng, trong khi kho của ta có hạn mà lòng tham của chúng không cùng.

Ta thừa biết làm như thế cũng chẳng khác gì đem thịt mà ném cho hổ đói, thế nào rồi hổ cũng vồ ta. Bởi chúng nó đâu chỉ muốn có bạc vàng, ngọc lụa. Chúng nó giả danh mượn đường để đánh Chiêm Thành, kỳ thực là chúng muốn cướp nước ta. Cái vạ về sau là cái vạ đó.

Tình hình đất nước đang như vậy. Loạn lạc và gian nan nay đã đến như vậy. Ta cùng các ngươi cùng chung tình hình. Chủ soái ghép mình vào với các tướng, chia sẻ chung với họ tình hình ấy, cùng sinh ra và cùng lớn lèn trong đó, ngang hàng, cùng lứa. Lời nói nghe như thân mật mà có gì đau xót bên trong. Như có tiếng thở dài, hay một giọng ngậm ngùi đang ẩn giấu. Hỏi người nghe còn lòng nào tách rời mình ra ngoài dòng cảm xúc ấy?

Đoạn 2: Tình hình đã chung ắt cảm xúc cũng phải chung. Cả một đoạn từ "Ta thường tới bữa…" đến "ta cũng vui lòng" là điều nung nấu trong tâm trạng chủ soái. Quên ăn, bỏ ngủ, đau, buồn, căm, tức, quyết giết giặc, quyết hy sinh. Tình cảm nào cũng cao độ. Quân giặc xúc phạm đến quốc thể, cả triều đình, cả dân tộc, chúng ra mặt cướp nước, coi ta như giun dế, rác rơm.

Chịu làm sao được! Ấy mà phải tạm thời chịu nhịn đề đủ thời gian chuẩn bị. Sử kế: Vào thời gian ấy, một lần đại biểu ta tiếp sứ giặc. Đang trao đổi, có gì phật ý, tên sứ trở đầu quạt cầm tay gõ mạnh vào cái đầu trọc của đại biểu ta, phun máu. Vị đại biểu ta không đổi sắc mặt, bình tĩnh lấy khăn lau chỗ máu chảy và tiếp tục trao đổi.

Dũng khí có bộc lộ thành sấm sét đùng đùng, nhưng cũng có khi biểu hiện thành im lặng. Có điều cái im lặng ấy là im lặng chứa sấm sét. Ngoài mặt, trước quân thù, trước mọi người, phải giữ đúng thái độ nhẫn nhịn cần thiết. Nhưng trong lòng, ban đêm, một mình hay với người tâm phúc, như với các tướng lĩnh của mình, sao cầm lòng mình (lược mà không độ sôi trào?)

Cho nên, đây là sự cởi mở tâm tình sâu kín nhất với kẻ mình hoàn toàn tin tưởng, với kẻ mình có thể phơi bày ruột gan được. Cũng bắt đầu bằng ta và lấy ta làm chú thế: Ta thường tới bữa quên ăn… ta cũng vui lòng. Đế bộc bạch hết mức cho bù lại cái nín nhịn khố tâm thường ngày, nhưng cũng để tướng lĩnh mình nghe, đế truyền cho họ cái lửa nhiệt tình của mình.

Chủ soái đã xem xét lại việc mình đối xử với tướng lĩnh có đúng với tinh thần một quân đội mà trên dưới coi nhau như cha con không. Một loạt chữ ta cho cũng dính chút quan hệ của chủ tớ, nhưng chú yêu là chứng tỏ sự chăm sóc thật chu đáo, tỉ mỉ, đầy tình thương yêu, trân trọng. Lặp lại và nhấn mạnh ba lần cùng ta, cùng nhau: Cùng ta coi giữ binh quyền, lúc trận mạc cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ cùng nhau vui cười.

Tuy cách biệt chức vị, tuy quan hệ chủ tớ, nhưng là cùng nhau lãnh trách nhiệm chung, cùng nhau làm nhiệm vụ chiến đấu, sống chết đều cùng nhau, cùng nhau yên nghỉ lúc nhàn hạ, vui cười đều cùng nhau. Tình cảm thắm thiết đó là biểu hiện tốt đẹp của tinh thần "phụ tử chi binh". Vậy cách đối xử của chủ soái đối với cấp dưới là chí tình chí nghĩa.

Đoạn 3: Chủ soái phơi bày tâm can, tự kiểm điểm cách đối xử đến như vậy mà nhìn lại hàng ngũ tướng tá của mình thì thế nào? Té ra các ngươi không hề nhục; các ngươi chỉ lo vui chơi, giặc đến thì ta và các ngươi đều bị bắt; ta và các ngươi đều bị mất tất cả, ta và các ngươi đều để nhục đến muôn đời; vậy bấy giờ có vui chơi được không? Cho nên các ngươi hãy nghe lời ta biết lo trước, huấn luyện quân sĩ, ai nấy đều giỏi, giết được giặc, rửa được thù, thì hạnh phúc biết bao cho ta, cho các ngươi, lại tiếng thơm lưu để nghìn đời; bấy giờ "không muốn vui chơi phỏng có được không?".

Lập luận của chủ soái chỉ có thế. Lý lẽ cũng bấy nhiêu. Nói mất thì mới nói đến lợi ích thiết thân: mất thái ấp, bổng lộc; gia quyến bị tan, vợ con bị khốn; xã tắc tổ tông bị giày xéo, phần mộ cha mẹ bị quật lên; thanh danh chẳng còn gì, nhục để trăm năm. Nếu được thì cũng những lợi ích thiết thân ấy: thái ấp vững bền, bổng lộc đời đời:

Gia quyến, vợ con ấm êm, giai lão; tông miếu tổ tông được tế lễ, thờ cúng; danh hiệu, tên họ, sử sách lưu thơm. Có ý kiến cho rằng nói lợi ích của chủ tớ trong giai cấp thống trị như thế này là một hạn chế, mặc dù lợi ích của giai cấp thống trị bấy giờ vẫn phù hợp với lợi ích của dân tộc.

Tuy nhiên, xét cho kỹ thì nói lợi ích thiết thân như đã nói lại là đi sâu thêm một mức vì nội dung dân tộc không dừng ở lãnh thổ, nó còn bao hàm quyền sinh sống của nhân dân. Con người còn có nguồn sống: ruộng đất, bổng lộc; gia quyến, vọ" con; mồ mả tổ tiên ông bà; tiếng xấu hay tiếng thơm để đời. Nói cách khác còn có đời sống vật chất và đời sống tinh thần; ngoài miếng ăn còn có tình cảm, có văn hóa phong tục, có trước mắt và có mai sau, có trách nhiệm đối với hiện tại và đôi với lịch sử muôn đời.

Nói lợi ích cá nhân thật, nhưng lợi ích cá nhân ấy gắn liền với trách nhiệm cực kỳ trọng đại là trách nhiệm đối với sự mất còn của nước nhà, bởi vì nó được đặt ra dưới một tiền đề đáng SỢ: Nếu giặc Mông Cổ tràn sang và một giả thiết hào hùng: cỏ thề bêu dược đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Vậy đâu còn là quyền cá nhân ích kỷ! Đó là quyền lợi thật, nhưng đó cũng là cái xuất phát thiết thân nhất, thiêng liêng nhất, cái nền tảng gần gũi nhưng vô cùng thiết thực và vững chắc của lòng yêu nước. Lòng yêu nước sâu xa, thắm thiết luôn luôn bắt nguồn từ tình yêu làng xóm, quê hương, gia đình.

Nói chuyện mất, được là giả thiết về tương lai. Trước mắt là chuyện tướng lĩnh ham vui chơi nên lấy việc vui chơi mà nói. Nào chủ soái có ngăn cấm cái gì. Họ say mê đủ thứ: chọi gà, đánh bạc; vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ con; lo làm giàu, ham săn bắn; thích rượu ngon, mê tiếng hát. sỏ" dĩ phải phê phán là vì vui chơi không phải lúc. Say mê những cái đó thì làm sao chống được giặc?

Cho nên phải biếm họa cho họ thấy: cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc? Mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; ruộng"lắm vườn nhiều nhưng không đâu chuộc được tấm thân giặc bắt; vợ bìu con díu, lo sao được việc quân?

Tiền nhiều sao mua được đầu giặc; rượu ngon không làm giặc say chết, tiếng hát hay không làm giặc điếc tai. Nghe như có giọng hài hước nhưng tình thì rất thật, rất trang nghiêm, chừng như có nỗi khổ tâm lớn, mà vì lòng bao dung, độ lượng mênh mông, chủ soái chi đem những thứ vui chơi tầm thường đối chiếu với sức mạnh quân địch, vạch ra cái bất lực của cái trò say mê trước sức mạnh ấy, cho họ thấy rõ mà thấm thía, nghĩ suy.

Hai lần chủ soái nhắc lại: Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi phong có được không? và Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không"? Nhắc lại là đồng tình cho vui chơi, nhưng chỉ vui chơi sau chiến thắng. Đó không chỉ là tấm lòng thương yêu mà còn là trí "óc rộng rãi. Có phê phán, có nêu cười, nhưng hết sức bao dung và hiếu biết.

Mục đích bài hịch là thức tỉnh. Thức tỉnh kẻ đang ngủ mê. Vậy phải lay dậy nhiều lần. Lời văn trở đi trở lại, trùng điệp chồng chất, tầng tầng lớp lớp. Hai đoạn ngắn là hai tầng lập luận chồng lên nhau, cái sau ngược hẳn với cái trước. Trước là chỉ biết vui chơi, giặc đến sẽ mất hết, muốn vui chơi cũng không được. Sau là chăm lo việc binh, giặc đến đánh thắng, cái gì cũng không mất mà còn được, muốn không vui chơi cũng không được.

Ấy là lấy cái mất đối lập với cái được. Mất thì: không còn, cũng mất; bị nạn, cũng khốn; bị giày xéo, bị quật lên; bị nhục, khôn rửa, không khỏi, bại trận. Được thì: mãi mãi vững bền, đời đời hưởng thụ, được ấm êm gối chăn, được bách. niên giai lão; được muôn đời tế lễ, được thờ cúng quanh năm; kiếp này đắc chí, trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; không bị mai một, sử sách lưu thơm. Đó là đối lập chi tiết. Còn đối lập cả mỏ" đầu: Nay các ngươi và Nay ta bảo thật các ngươi; đối lập cả kết luận: dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không? Với dẫu các ngươi không muốn vui chơi phỏng có được không?

Chọi nhau từng lời một, cụ thể, chan chát, đến phải bật ra chân lý. Trên là đối lập giữa hai đoạn với nhau. Trong mỗi đoạn cũng nhiều tầng nhiều lớp. Thử xem ở đoạn trên.

Bắt đầu là tầng một. Lặp toàn một lời phủ định: không biết: không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm. Lại bốn lần không biết, bốn lớp tình cảm sắp xếp từ thấp lên cao, trôn cơ sở một tình cảm nhất quán là nhục: nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn, hầu quân giặc (nhục) mà không biết tức, nghe nhạc của vua trong tiệc đãi ngụy sứ (nhục) mà không biết căm.

Tiếp theo là tầng hai: Rặt lối vui chơi phù phiếm ích kỷ, sắp xếp thành bốn lớp từ vui đùa đến thích mê: lấy chọi gà làm vui đùa, lấy đánh bạc làm tiêu khiển (lớp 1); vui thú ruộng vườn, quyến luyến vợ con (lớp 2); lo làm giàu quên việc nước, ham săn bắn quèn việc binh (lớp 3); thích rượu ngon, mê tiếng hát (lớp 4).

Tầng thứ ba: Nếu giặc Mông Cổ tràn sang. Chỉ những lời bất lực: sao đâm thủng, không thể dùng, nghìn vàng khôn chuộc, trăm sự ích chi, không mua, không đuổi, không thể, không thể.

Tầng thứ tư là hậu quả của các tình hình trên. Một lời xuyên suốt tất cả: mất, ta các ngươi đều mất. Và cũng bốn lớp nhấn đi nhấn lại bằng bốn cặp: chẳng những mà cùng: chẳng những thái ấp ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất, chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn…

Bốn tầng, mỗi tầng bốn lớp. Lớp sau bồi thêm cho lớp trước, từ thấp lên cao, từ cạn đến sâu, từ nhẹ đến nặng, từ gần đến xa. Bốn tầng xếp thành một lập luận chặt chẽ, giản đơn, cụ thể, sinh động, đập mạnh vào cảm tính, vào trái tim. Cuối cùng tổng kết lại bằng một chữ không to tướng đằng sau câu hỏi quyết định, có sức nặng như một lời quở phạt nhưng lại vẫn êm ái một giọng tâm tình: lúc bấy giờ dẫu các ngươi muốn vui chơi phỏng có được không"?

Đoạn văn tiếp theo cũng có hai tầng, mỗi tầng cũng có hai lớp. Chấm dứt tuy cũng còn là chữ không, nhưng đằng sau câu hỏi lại là chữ "có", lại là khẳng định "phải vui chơi" vì không vui chơi cũng không được.

Lời văn ở cả hai đoạn đâu phải là lời quở trách, càng không có giọng điệu sỉ nhục. Đó là lời nhỏ to, hơn thiệt đầy bao dung và tin cậy. Người nghe không thấy mình bị vùi dập mà thấy mình vẫn được tín nhiệm, mình sẽ thức tỉnh, mình sẽ giỏi giang, mình sẽ đủ khả năng tiêu diệt quân giặc.

Phần 3 Tuy nhiên, thân mật không có nghĩa là xa rời nguyên tắc, bỏ qua trách nhiệm. Ngay ở phần trên vẫn không quên đối chiếu với nhiệm vụ, không một phút lãng quên nguy cư nước nhà bị xâm lược. Cho nên sau khi phân tích việc vui chơi, lấy đó làm điều răn, sau khi động viên tướng tá có thể làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang, chủ soái lại nêu ra mục đích cụ thể, trực tiếp của bài hịch vù vạch ra hai con đường buộc phải chọn một: Nếu biết chuyền tập sách này theo lời ta dạy bảo thì trọn đời là tôi chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy thì trọn đời là nghịch thù.

Và chủ soái giải thích luôn: Bởi giặc với ta là kể không đội trời chung, các ngươi không lo luyện tập, thì khác gì quay giáo đầu hàng, tay không chịu thua giặc, như vậy còn gì mà không thù? Còn gì mà không muôn đời để thẹn, mặt mũi nào đứng trong trời che đất chở này nữa? Cuối cùng chấm dứt bằng một câu tỏ rõ tấm lòng của chủ soái: Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.


Bụng ấy là thương yêu độ lượng, nhưng vừa ân tình, vừa cương quyết, vừa động viên vừa ép buộc, vừa khuyên lơn vừa kỷ luật. Giọng điệu là tâm tình nhưng lời đã là ra lệnh: nêu nghe là tôi chủ, nếu không biết nghe là nghịch thù. Người nghe vì tình không thể cảm thông, vì lý không thể không bị thuyết phục.

Trong văn học nước nhà không mấy bài hịch có giọng tình cảm như bài này. Lý lẽ không cao xa mà gần gũi, không trừu tượng mà cụ thể, lấy người lấy việc mà nêu gương, thu phục chứ ít dùng giảng giải, thuyết lý, nhưng tất cả đều thấm đượm ân tình, đạo nghĩa của chủ soái theo tinh thần phụ tử chi binh. Bài hịch có những hạn chế nhất định, nhưng chính nhờ tinh thần ấy mà có một sức lay động sâu xa, mãnh liệt.

Khi được truyền ra rộng rãi, nó đã làm cho toàn quân toàn dân nức lòng hăng hái giết giặc, phối hợp với tác dụng của lời kêu gọi Diên Hồng (đầu năm 1285), đưa đến việc thích vào tay hai chữ Sát Thát và nâng cao ngất trời hào khí đời Trần. Cho đến ngày nay, bài hịch vẫn còn giữ nguyên sức lay động ấy. Nó vẫn là một bài học sẵn sàng chiến đấu và quyết tâm chiến thắng, một lời nhắn nhủ yêu nước thương nhà muôn đời không thôi thúc giục.




Bài học liên quan

Từ khóa phổ biến