Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè

Mùa hè, ngày dài, rỗi rãi, ngồi hóng mát., nhưng không phải thư nhàn, thanh thản mà với một bầu tâm sự, xúc cảm mà ghi lại. Từ cảnh nghĩ đến thế cuộc rối lòng khiến tình ý miên man của Nguyễn Trãi


1. Về tác giả và xuất xứ:

2.

 a.   Nguyễn Trãi (1380-1442), đỗ Thái học sinh thời cuối Trần, ông ngoại là Trần Nguyên Đán, tể tướng nhà Trần. Con nhà văn hiến, tuổi trẻ, tài cao giữa lúc vận nước gian nguy (giặc Minh xâm lược năm 1407), Nguyễn Trãi đã theo Lê Lợi làm nên thắng lợi của công cuộc giải phóng dân tộc (1418-1428) mở ra một vương triều mới. Là tác giả của Quân trung từ mệnh, Đại cáo bình Ngô những văn kiện chính trị, quân sự, ngoại giao nổi tiêng thời phong kiến. Lại là tác giả Dư địa chí (một trong những cuốn sách địa lí đầu tiên về nước ta) và hàng trăm bài thơ chữ Hán, chữ Nôm sau tập hợp thành ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập. Một lòng thờ vua, giúp nước, thương dân nhưng cuối đời gặp họa chu di tam tộc (giết ba họ). Ông là một thiên tài nhân nghĩa - thanh cao - chịu oan nghiệt. Năm 1980, Tổ chức Giáo dục, khoa học và Vãn hóa thế giới (UNESCO) đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân Văn hóa thế giới.

b. Quốc âm thi tập gồm 254 bài, tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn, cho nên có thể nói Nguyễn Trãi là người đặt nền móng và một trong những đỉnh cao của Thơ Việt. Tập thơ được chia làm 4 phần, theo thể thất ngôn Đường luật chen lục ngôn (có một câu sáu tiếng xen vào), một sự thay đổi chỉ thấy ở thơ Việt thế kỉ XV, XVI. Bốn phần này được chia ra thơ về thời tiết, cây cỏ, thú vật và không có tựa đề (vô đề). Tất cả đều là tâm sự, tâm trạng, tâm tình, tâm tính. Những cảm xúc, nghĩ suy trước sự vật, nhân tình, thế sự, thế thái của một trong những con người Việt Nam đẹp nhất cách đây khoảng 600 năm. Xã hội thế nào? Con người ra sao? Chí hướng thế nào? Nỗi mình ra sao? Tự răn điều gì giữa thời buổi tranh quyền đoạt lợi trong một vương triều mới thành, đang lên đều có thể tìm thấy trong tập thơ.

     Trên cái nền ấy là lung linh vẻ đẹp ức Trai “lòng sáng như sao Khuê” (ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo) như nhận xét của Lê Thánh Tông (1460- 1497), vị vua anh minh nhất trong 1000 năm quốc gia Đại Việt.

2. Về bài thơ.

     Cảnh ngày hè, xếp trong mục Bảo kính cảnh giới bài 43 (Gương báu răn mình) của phần Vô đề.

     Mùa hè, ngày dài, rỗi rãi, ngồi hóng mát., nhưng không phải thư nhàn, thanh thản mà với một bầu tâm sự, xúc cảm mà ghi lại. Từ cảnh nghĩ đến thế cuộc rối lòng khiến tình ý miên man. Chúng ta sẽ đi vào bài thơ để thấy vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.

a. Trước hết là vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên - cảnh ngày hè.

      Nhà thơ từ trong sự tĩnh lặng, có gì đó vắng vẻ của đời sống thường nhật bản thân nơi ở ẩn để vẽ nên bức tranh phong cảnh. Lầu cao, lúc mặt trời sắp lặn, những tiếng ve inh ỏi cuối cùng để rồi sẽ chìm vào im ắng, con người này chỉ còn mỗi việc hóng mát một mình suốt ngày. Ông sẽ thấy gì ở cuộc sống ngày hè? Cây và hoa, người và vật đều bộc lộ hết nhiệt độ sống tối đa của nó. Cây hòe, tán giương che rợp, màu xanh dày dặn, đầy đặn, cố mà xanh hết sức xanh. Cây thạch lựu cũng cố phun sắc đỏ. Hoa sen hồng thì cố tỏa hương ngát hơn. Chợ cá phải náo nhiệt lắm thì từ nơi xa mới vẳng lai được tiếng lao xao. Những tiếng ve cuối cùng của cuối ngày như muốn đứt giọng mà kêu. Các động từ đùn đùn, phun, tiễn, lao xao, dắng dỏi đều diễn tả trạng thái đang vận động mạnh mẽ, ứa căng, tràn đầy của vạn vật. Cách ngắt nhịp cũng có sự biến đổi đặc biệt. Không đều đều, cân đối, nhịp nhàng 3/4 quen thuộc của thể thơ đường luật. Giữa “Hòe lục đùn đùn / tán rợp gương”, và “lao xao chợ cá / làng ngư phủ; Dắng dỏi cầm ve / lầu tịch dương” là Thạch lựu hiên / còn phun thức đỏ; Hồng liên trì / đã tiễn mùi hương (nhịp 3/4). Người ta sẽ cảm nhận được muôn vật, muôn vẻ khác nhau qua trạng thái và nhịp sống của nó bằng các động từ miêu tả và sự thay đổi tiết tấu ở các cáu thơ. Sức sống này đầy đặn, lớp lớp sinh sôi, sức sống kia mạnh mẽ, cái này là bề rộng, cái kia là chiều cao. Tất cả đều sống động, đang khát sống. Cái thể trạng hừng hực là thể trạng riêng, là vẻ đẹp của cảnh vật ngày hè dưới con mắt nhìn Nguyễn Trãi.

b. Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi.

     Thiên nhiên quanh mình, cuộc sống xã hội nơi xa tất cả đều vang động trong cõi lòng, trong tâm hồn ông. Nhà thơ quan sát, tận hường hương vị, lắng nghe cái rướn mình sinh sôi, nảy nở, thôi thúc tự bên trong, đang ứa căng, tràn đầy, xôn xao của vạn vật và đời sống. Phải có lòng yêu thiên nhiên, cuộc sống sâu sắc, thắm thiết, thấm thía con người này mới có thể thụ hưởng được như thế trong một buổi đơn, cô độc như vậy. Nguyễn Trãi sẽ vui cái vui sinh sôi, nảy nở đang diễn ra quanh mình để quên đi cái tâm không nhàu. Và cái tâm không nhàn của ông, chính là nỗi niềm, khát vọng về một đời sống thái bình, hạnh phúc cho dân cho nước. Nhất là khi chứng kiến đời sống thực, tự nhiên, yên lành, khát sống, không đua chen, bụi bặm của con người, tạo vật buổi cuối chiều ngày hè này.

"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương"

      Lẽ ra nên có, làm sao có một triều đại, một xã hội cho muôn dân, muôn vật đang tràn đầy sức sống kia được sống thanh bình, an hưởng hạnh phúc. Chiến tranh chấm dứt: thế sự tưởng yên ổn, không ngờ lại đang chứa chất những rối ren. Bao giờ mới đến thời thái bình thịnh trị đây? Nguyễn Trãi, trong cảnh mà ta gặp, bài thơ mà ta đọc hôm nay, đang đặt ra câu hỏi ấy. Câu hỏi quên thân mình, phận mình để day dứt cho dân, cho nước. Nỗi đau, niềm lo, nỗi khát khao và tâm trạng ngậm ngùi cùng đồng thời hiện diện ở con người trước sau chỉ giữ vững một quan niệm, một tình cảm “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

      Hai câu kết, thì câu cuối cùng 6 chữ. Là tiêu chí rõ ràng, ngắn gọn của thời đại thái bình. Thái bình, thịnh trị là “Dân giàu đủ, khắp đòi (muôn) phương”. Giữa nước (triều đại) và dân. Nguyễn Trãi luôn lấy dân làm trọng, lấy sự giàu có, no đủ, hạnh phúc của dân làm gốc. Đây cũng là nỗi niềm chung của những con người “đã rằng vì nước, vì dân”. Trước Nguyễn Trãi khoảng 500 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915-990) thời Tiền Lê từng khẳng định: "Vận nước có nhiều nỗi, nhưng mở ra cõi thái bình là trên hết, nhà vua ở trên cao, nên lấy đức mà cảm hóa, khắp mọi nơi sẽ đều hết cảnh đao binh”. Sau Nguyễn Trãi cũng khoảng 500 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890-1969) cũng chỉ có một mong muốn tột cùng như thế.