Giải bài tập Thực hành tiếng Việt: Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp trang 59 vở thực hành ngữ văn 9

Phần dẫn, cách dẫn và dấu hiệu nhận biết trong các câu:


Câu 1

Trả lời Câu 1 THTV trang 59 VTH Văn 9 Kết nối tri thức

Phần dẫn, cách dẫn và dấu hiệu nhận biết trong các câu:

Câu

Phần dẫn

Cách dẫn và dấu hiệu nhận biết

a

 

 

b

 

 

Phương pháp giải:

Ôn lại kiến thức về cách dẫn trực tiếp, gián tiếp

Lời giải chi tiết:

Phần dẫn, cách dẫn và dấu hiệu nhận biết trong các câu:

a. Khi chồng ra đi nàng giãi bày nỗi niềm của mình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu {...}, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

- Phần dẫn: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu {...}, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

-> Đây là dẫn trực tiếp. Được đặt trong dấu ngoặc kép, trích ý nguyên lời nhân vật.

b. Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.

- Phần dẫn: người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.

-> Đây là dẫn gián tiếp, được dẫn qua lời kể của nhà văn và không được đặt dấu ngoặc kép.


Câu 2

Trả lời Câu 2 THTV trang 60 VTH Văn 9 Kết nối tri thức

Chuyển cách dẫn trực tiếp sang cách dẫn gián tiếp:

Trường hợp dẫn trực tiếp

Cách dẫn gián tiếp

a

 

b

 

c

 

Phương pháp giải:

Ôn lại kiến thức về cách dẫn trực tiếp, gián tiếp

Lời giải chi tiết:

Chuyển cách dẫn trực tiếp sang cách dẫn gián tiếp

a. Thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn đã khẳng định: “Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi”.

(Theo Hoàng Vĩnh, tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, tháng 4/2023)

=> Thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn đã khẳng định về việc với đồng bào ông, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh…

b. Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi lấy nàng, nếu như không có một đêm tình cờ đứa bé nói: “Cha Đản lại đến kìa!”.

(Nguyễn Đăng Na, “Người con gái Nam Xương – một bi kịch của con người)

=> Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi lấy nàng, nếu như không có một đêm tình cờ đứa bé nói cha thằng bé lại đến.

c. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã bộc lộ thành thực một tâm trạng:

“Dẫu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hàng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.

(Lê Quang Hưng, “Nắng mới” - sự thành thực của một tầm hồn giàu mơ mộng)

=> Trong “Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã bộc lộ thành thực một tâm trạng dẫu có ưa thơ người này, người khác, mỗi lúc buồn ông lại trở về với Lưu Trọng Lư…


Câu 3

Trả lời Câu 3 THTV trang 60 VTH Văn 9 Kết nối tri thức

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 5 - 7 câu) có nội dung liên quan đến ý kiến: "Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực với ước mơ, giữa cái tồn tại với cái ảo ảnh." (Nguyễn Đăng Na, Người con gái Nam Xương – một bi kịch của con người) và trích dẫn ý kiến đó theo cách dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp.

Phương pháp giải:

Đưa ra vấn đề nghị luận trong ý kiến từ đó triển khai thành đoạn văn và có trích dẫn ý kiến.

Lời giải chi tiết:

Bình luận về tài năng của Nguyễn Dữ khi xây dựng hình tượng người phụ nữ trong văn bản “Người con gái Nam Xương”, Nguyễn Đăng Na đã khẳng định: “Có thể nói, với “Người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã vượt khỏi những công thức thông lệ về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì. Theo công thức thông thường, người phụ nữ trong xã hội xưa là những người phụ nữ đẹp, có đủ công dung ngôn hạnh. Thậm chí họ còn có tài năng. Đáng ra cần được trân trọng. Nhưng những lễ giáo phong kiến lại ràng buộc và chà đạp họ không thương xót, họ phải chịu những bất công ngang trái và bi kịch, thậm chí là cả cái chết. Nguyễn Dữ đã vượt qua khuôn mẫu thông thường, thể hiện tấm lòng trân trọng ngợi ca với số phận bất hạnh của những người phụ nữ. Nhà văn đã lên tiếng nói bênh vực và thể hiện niềm tin vào họ. Vũ Nương đẹp, công dung ngôn hạnh nhưng chịu số phận bi kịch. Phải sống người chồng hồ đồ độc đoán gia trưởng như Trương Sinh, nên cái chết là tất yếu. Nhưng Vũ Nương khi chết đi, được Linh Phi cứu và sống dưới thủy cung. Người phụ nữ bị oan thì nhất định được giải oan, ngay ở kiếp này chứ không phải ở kiếp khác. Đây chính là điểm mới, vượt qua công thức, khuôn mẫu thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì.



Từ khóa phổ biến