Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi


Video bài giảng

1. Đối tượng của bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

  • Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói chung.
  • Có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của đoạn trích đó.

2. Yêu cầu của bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

  • Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác phẩm. Nghĩa là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn nội dung của đoạn trích lại sơ lược.
  • Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như nội dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh giá chính xác.

3. Các bước làm bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

- Bước 1: Phân tích đề – xác định các yêu cầu của đề

  • Xác định dạng đề.
  • Yêu cầu nội dung (đối tượng).
  • Yêu cầu vê phương pháp.
  • Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

- Bước 2: Lập dàn ý – tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần

  • Mở bài:
    • Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.
    • Giới thiệu vấn đề nghị luận.
  • Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích.
  • Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.

- Bước 3: Viết bài

  • Dựa theo dàn bài đã xây dựng, viết thành bài văn hoàn chỉnh.
  • Chú ý viết đoạn văn phải thể hiện được nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những luận cứ rõ ràng. Các đoạn phải có liên kết, chuyển tiếp nhau.

- Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa


Ví dụ:

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô Hoài viết:

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

(Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Từ đoạn văn trên, anh (chị) hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
  • Giới thiệu đọan trích và vấn đề cần nghị luận.

b. Thân bài

- Khái quát về tác phẩm và vị trí đoạn trích.

- Phân tích đoạn trích để làm nổi bật vấn đề.

Hình ảnh nhân vật Mị

  • Mị có khát vọng sống mãnh liệt (Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”).
    • Mị vốn là một cô gái yêu đời, có khát vọng sống mãnh liệt. Dù bị trà đạp nghiệt ngã nhưng khát vọng ấy đã trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.
    • Nếu ban đầu, tiếng sáo còn là yếu tố ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm hồn Mị. Mị đang sống trọn với nó. Tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, tình đời; tiếng sáo vẫn tha thiết, giục giã ; tiếng sáo đã đánh thức khát vọng sống nơi Mị.
  • Số phận của Mị (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa).
    • Mị bừng tỉnh, dây trói của A Sử làm Mị nhận ra hiện thực nghiệt ngã. Khát vọng sống của Mị đã bị chặn đứng.
    • Mị nghĩ mình không bằng con ngựa và thực tế cuộc đời Mị không bằng con ngựa (Mị là con dâu gạt nợ, là thân phận nô lệ, bị giam hãm…) → Tấm lòng của nhà văn.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn

  • Nhà văn như đã nhập thân vào nhân vật Mị và miêu tả diễn biến tâm lí theo một trình tự hợp lí:
    • Để đánh thức sức sống đang tiềm tàng trong Mị, nhà văn trả lại cho Mị kí ức đẹp.
    • Đang sống trong quá khứ mà quên cả hiện tại đang bị trói nên Mị vùng bước đi.
    • Khi nỗi đau thể xác ập đến, thế giới mông tưởng bị dập tắt, Mị không nghe tiếng sáo nữa mà nghe tiếng chân ngựa.
  • Sử dụng yếu tố ngoại cảnh có hiệu quả : hơi rượu, tiếng sáo, bài hát quen thuộc.

⇒ Tài năng của nhà văn

c. Kết bài

  • Đánh giá chung.

Ví dụ 2:

Cảm nhận của anh/chị về tình huống truyện trong đoạn trích sau: “Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây […] đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…” 

(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát tác giả - tác phẩm - vị trí đoạn trích.

b. Thân bài

Cảm nhận tình huống

- Khái niệm tình huống và biểu hiện tình huống

  • Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Đó là môi trường, hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện, tính cách phát triển và dụng ý của nhà văn được bộc lộ sắc nét. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: “Tình huống truyện là lát cắt, là khúc cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”.
  • Biểu hiện tình huống: Tràng nghèo khổ xấu xí, ế vợ. Giữa lúc nạn đói đang diễn ra, chỉ một câu hò. Bốn bát bánh đúc cứu đói. Thế mà có người đàn bà đã chấp nhận cho không đời mình để về làm vợ Tràng. Đây là tình huống vừa bi lại vừa hài.

- Tình huống truyện tạo nên vẻ đẹp tâm hồn ở các nhân vật

  • Người vợ nhặt và khát vọng sống mãnh liệt
    • Người vợ nhặt xuất hiện với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai là gì. Ngoại hình rách rưới thảm hại; tính cách sỗ sàng, trơ trẽn, nanh nọc chua ngoa. Thị sẵn sang bán danh dự, đổi nhân cách lấy bốn bán bánh đúc. Thị chấp nhận “Miếng ăn là miếng nhục” để được sống.
    • Cái đói đẩy người đàn bà đến sự cùng đường liều lĩnh: Tràng nói đùa – thị tưởng thật. Thị chấp nhận cho không, biếu không bản thân mình cho người đàn ông xa lạ.
    • Dù cận kề cái chết nhưng thị luôn bám lấy sự sống bằng mọi giá. Đó là vẻ đẹp của lòng khát sống, dám sống đến mãnh liệt.
  • Tràng – người đàn ông tốt bụng
    • Người đàn ông xấu xí, nghèo khổ nhưng hào hiệp và tốt bụng, cởi mở. Anh thương một người đói khát hơn mình. Sẵn sàng cứu đói cho người đàn bà xa lạ.
    • Tràng sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Chấp nhận đưa thị về là một quyết định mạo hiểm nhưng Tràng vẫn chấp nhận.
    • Tràng nhanh chóng trưởng thành, biết quan tâm lo lắng cho vợ. Anh mua hai hào dầu, mua cho thị cái thúng con, đánh một bữa cơm no nê… Tất cả những biểu hiện ấy là vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu và sự trân trọng hạnh phúc.

- Tình huống truyện đem đến kết thúc có hậu

  • Tràng đưa vợ về nhà. Bà cụ Tứ chấp nhận cho cuộc hôn nhân. Cuộc sống mới bắt đầu. Hạnh phúc được nhen lên, được đón nhận.
  • Tính cách, tâm trạng ở các nhân vật thay đổi tích cực. Bà cụ Tứ tươi cười, cái mặt bủng beo u ám bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Người vợ nhặt không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn mà hiền hậu, biết lo toan. Tràng trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành động.

- Giá trị của tình huống truyện

  • Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 (giá trị hiện thực).
  • Thái độ cuả nhà văn đối với con người:
    • Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo: Dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân nghèo vẫn luôn thương yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thật đúng với tinh thần”Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam (giá trị nhân đạo).

c. Kết bài

  • Nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Trần thuật hấp dẫn. 

1. Đối tượng của bài văn nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

  • Có thể là giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói chung.
  • Có thể chỉ là một phương diện, thậm chí một khía cạnh nội dung hay nghệ thuật của đoạn trích đó.

2. Yêu cầu của bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

  • Phải phân biệt được nghị luận về một đoạn trích và nghị luận về một tác phẩm. Nghĩa là tránh việc đề cập tới tất cả các nội dung của tác phẩm còn nội dung của đoạn trích lại sơ lược.
  • Tập trung vào đoạn trích nhưng phải biết vận dụng kiến thức của toàn tác phẩm như nội dung tư tưởng, cách kể chuyện, cách sử dụng chi tiết, cách xây dựng nhân vật, các biện pháp tu từ. Nhất thiết phải đặt đoạn văn trong chỉnh thể của tác phẩm mới có cách đánh giá chính xác.

3. Các bước làm bài văn nghị luận về về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi

- Bước 1: Phân tích đề – xác định các yêu cầu của đề

  • Xác định dạng đề.
  • Yêu cầu nội dung (đối tượng).
  • Yêu cầu vê phương pháp.
  • Yêu cầu phạm vi tư liệu, dẫn chứng.

- Bước 2: Lập dàn ý – tìm ý, sắp xếp ý: Theo bố cục ba phần

  • Mở bài:
    • Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn trích văn xuôi cần nghị luận.
    • Giới thiệu vấn đề nghị luận.
  • Thân bài: Phân tích những giá trị nội dung, nghệ thuật tác phẩm, đoạn trích để làm rõ vấn đề cần nghị luận hoặc một số khía cạnh đặc sắc nhất của đoạn trích.
  • Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm, đoạn trích.

- Bước 3: Viết bài

  • Dựa theo dàn bài đã xây dựng, viết thành bài văn hoàn chỉnh.
  • Chú ý viết đoạn văn phải thể hiện được nổi bật luận điểm và chứng minh bằng những luận cứ rõ ràng. Các đoạn phải có liên kết, chuyển tiếp nhau.

- Bước 4: Kiểm tra, chỉnh sửa


Ví dụ:

Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, Tô Hoài viết:

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

(Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Từ đoạn văn trên, anh (chị) hãy làm rõ hình ảnh nhân vật Mị và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn.

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
  • Giới thiệu đọan trích và vấn đề cần nghị luận.

b. Thân bài

- Khái quát về tác phẩm và vị trí đoạn trích.

- Phân tích đoạn trích để làm nổi bật vấn đề.

Hình ảnh nhân vật Mị

  • Mị có khát vọng sống mãnh liệt (Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”).
    • Mị vốn là một cô gái yêu đời, có khát vọng sống mãnh liệt. Dù bị trà đạp nghiệt ngã nhưng khát vọng ấy đã trỗi dậy trong đêm tình mùa xuân.
    • Nếu ban đầu, tiếng sáo còn là yếu tố ngoại cảnh, giờ đây tiếng sáo đã nhập hẳn vào tâm hồn Mị. Mị đang sống trọn với nó. Tiếng sáo là tiếng gọi của tình yêu, tình đời; tiếng sáo vẫn tha thiết, giục giã ; tiếng sáo đã đánh thức khát vọng sống nơi Mị.
  • Số phận của Mị (Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa).
    • Mị bừng tỉnh, dây trói của A Sử làm Mị nhận ra hiện thực nghiệt ngã. Khát vọng sống của Mị đã bị chặn đứng.
    • Mị nghĩ mình không bằng con ngựa và thực tế cuộc đời Mị không bằng con ngựa (Mị là con dâu gạt nợ, là thân phận nô lệ, bị giam hãm…) → Tấm lòng của nhà văn.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của nhà văn

  • Nhà văn như đã nhập thân vào nhân vật Mị và miêu tả diễn biến tâm lí theo một trình tự hợp lí:
    • Để đánh thức sức sống đang tiềm tàng trong Mị, nhà văn trả lại cho Mị kí ức đẹp.
    • Đang sống trong quá khứ mà quên cả hiện tại đang bị trói nên Mị vùng bước đi.
    • Khi nỗi đau thể xác ập đến, thế giới mông tưởng bị dập tắt, Mị không nghe tiếng sáo nữa mà nghe tiếng chân ngựa.
  • Sử dụng yếu tố ngoại cảnh có hiệu quả : hơi rượu, tiếng sáo, bài hát quen thuộc.

⇒ Tài năng của nhà văn

c. Kết bài

  • Đánh giá chung.

Ví dụ 2:

Cảm nhận của anh/chị về tình huống truyện trong đoạn trích sau: “Ít lâu nay hắn xe thóc Liên đoàn lên tỉnh. Mỗi bận qua cửa nhà kho lại thấy mấy chị con gái ngồi vêu ra ở đây […] đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về…” 

(Trích Vợ nhặt – Kim Lân)

Gợi ý làm bài:

a. Mở bài

  • Giới thiệu khái quát tác giả - tác phẩm - vị trí đoạn trích.

b. Thân bài

Cảm nhận tình huống

- Khái niệm tình huống và biểu hiện tình huống

  • Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. Đó là môi trường, hoàn cảnh để nhân vật xuất hiện, tính cách phát triển và dụng ý của nhà văn được bộc lộ sắc nét. Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng cho rằng: “Tình huống truyện là lát cắt, là khúc cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”.
  • Biểu hiện tình huống: Tràng nghèo khổ xấu xí, ế vợ. Giữa lúc nạn đói đang diễn ra, chỉ một câu hò. Bốn bát bánh đúc cứu đói. Thế mà có người đàn bà đã chấp nhận cho không đời mình để về làm vợ Tràng. Đây là tình huống vừa bi lại vừa hài.

- Tình huống truyện tạo nên vẻ đẹp tâm hồn ở các nhân vật

  • Người vợ nhặt và khát vọng sống mãnh liệt
    • Người vợ nhặt xuất hiện với cuộc sống bấp bênh, trôi nổi, không biết đến ngày mai là gì. Ngoại hình rách rưới thảm hại; tính cách sỗ sàng, trơ trẽn, nanh nọc chua ngoa. Thị sẵn sang bán danh dự, đổi nhân cách lấy bốn bán bánh đúc. Thị chấp nhận “Miếng ăn là miếng nhục” để được sống.
    • Cái đói đẩy người đàn bà đến sự cùng đường liều lĩnh: Tràng nói đùa – thị tưởng thật. Thị chấp nhận cho không, biếu không bản thân mình cho người đàn ông xa lạ.
    • Dù cận kề cái chết nhưng thị luôn bám lấy sự sống bằng mọi giá. Đó là vẻ đẹp của lòng khát sống, dám sống đến mãnh liệt.
  • Tràng – người đàn ông tốt bụng
    • Người đàn ông xấu xí, nghèo khổ nhưng hào hiệp và tốt bụng, cởi mở. Anh thương một người đói khát hơn mình. Sẵn sàng cứu đói cho người đàn bà xa lạ.
    • Tràng sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ. Chấp nhận đưa thị về là một quyết định mạo hiểm nhưng Tràng vẫn chấp nhận.
    • Tràng nhanh chóng trưởng thành, biết quan tâm lo lắng cho vợ. Anh mua hai hào dầu, mua cho thị cái thúng con, đánh một bữa cơm no nê… Tất cả những biểu hiện ấy là vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu và sự trân trọng hạnh phúc.

- Tình huống truyện đem đến kết thúc có hậu

  • Tràng đưa vợ về nhà. Bà cụ Tứ chấp nhận cho cuộc hôn nhân. Cuộc sống mới bắt đầu. Hạnh phúc được nhen lên, được đón nhận.
  • Tính cách, tâm trạng ở các nhân vật thay đổi tích cực. Bà cụ Tứ tươi cười, cái mặt bủng beo u ám bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Người vợ nhặt không còn vẻ chao chát, chỏng lỏn mà hiền hậu, biết lo toan. Tràng trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành động.

- Giá trị của tình huống truyện

  • Nhà văn lên án tội ác của bọn phát xít Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945 (giá trị hiện thực).
  • Thái độ cuả nhà văn đối với con người:
    • Kim Lân trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người dân nghèo: Dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo, tăm tối, người dân nghèo vẫn luôn thương yêu, đùm bọc, cưu mang nhau. Thật đúng với tinh thần”Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách” của dân tộc Việt Nam (giá trị nhân đạo).

c. Kết bài

  • Nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Trần thuật hấp dẫn. 

Bài học tiếp theo

Bài học bổ sung