Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân
Video bài giảng
1. Tìm hiểu chung
a. Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987)
- Quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội.
- Sinh ra trong gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn à am hiểu cuộc sống của nhà nho, nhất là những nền nếp, những thú chơi tao nhã của người xưa.
- 1945, đến với cách mạng và dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến
- Phong cách nghệ thuật và khuynh hướng sáng tác:
- Nguyễn Tuân là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn. Điều này thể hiện rõ trong đề tài, bút pháp xây dựng nhân vật,…
- Là nhà văn của những tính cách độc đáo, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mỹ à được mệnh danh “người săn tìm cái Đẹp”, luôn nhìn con người từ phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Là nhà văn thành công ở thể loại bút kí, tùy bút với phong cách uyên bác, tài hoa độc đáo.
- Ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Tuân rất ấn tượng, hấp dẫn. Ông được mệnh danh là “bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ”.
⇒ Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp; có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1996, ông được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
b. Tác phẩm
- Xuất xứ, tên gọi
- Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”, in năm 1938 trên báo Tao Đàn.
- Năm 1940: được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù” ⇒ Truyện ngắn này nằm trong mạch cảm hứng chung của toàn tập truyện: ca ngợi và khẳng định cái Đẹp trong quá khứ ⇒ chữ/cái Đẹp mới là trung tâm chứ không phải người.
- Bố cục
- Phần 1: từ đầu đến “rồi sẽ liệu” ⇒ tâm trạng của quản ngục khi nghe tin tiếp nhận tù nhân.
- Phần 2: đoạn tiếp theo đến “một tấm lòng trong thiên hạ” ⇒ quá trình xin chữ
- Phần 3: còn lại à cảnh cho chữ
2. Đọc - hiểu văn bản
a. Tình huống truyện
- Khái niệm: “là cái tình thế nảy sinh ra truyện mà ở thời điểm đó sự sống hiện lên đậm đặc nhất”; “là lát cắt, là khúc cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu) ⇒ là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa mà ở đó, nhân vật xuất hiện và bộc lộ tính cách, chủ đề của tác phẩm và dụng ý của nhà văn, do đó cũng tự thân bộc lộ.
- Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa viên quản ngục và Huấn Cao - một tội phạm nguy hiểm của triều đình đang chờ ngày ra pháp trường.
- Đây là một tình huống hợp lý nhưng éo le và đầy kịch tính (xét về không gian, thời gian, thân phận nhân vật)
- Vai trò của tình huống truyện:
- Là điều kiện giúp các nhân vật bộc lộ tính cách:
- Tạo ra kịch tính cho truyện, tăng sức hấp dẫn
- Giúp nhà văn thể hiện trọn vẹn tư tưởng chủ đề của tác phẩm
b. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
- Hoàn cảnh: người anh hùng thất thế ⇒ hoàn cảnh dễ làm con người sống thỏa hiệp, hèn hạ.
- Nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
- Hình ảnh “Một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định” ⇒ thể hiện tấm lòng ưu ái của Nguyễn Tuân dành cho nhân vật Huấn Cao.
- Trong tác phẩm, Huấn Cao được miêu tả trên 3 bình diện: một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng giàu khí phách và một con người có thiên lương trong sáng:
- Một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp
- Tài năng của Huấn Cao được miêu tả một cách gián tiếp:
- Qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại: “thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?”, “…Cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, “nhiều người nhắc nhỏm đếm cái danh đó luôn…”, “thế ra y văn võ đều có tài cả”.
- Qua hành động và suy nghĩ của kẻ đối địch - quản ngục: Viên quản ngục bất chấp mạo hiểm để đối đãi tử tế với Huấn Cao, chỉ mong đạt được sở nguyện là “một ngày kia được treo riêng ở nhà mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm […] Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”
⇒ Cách miêu tả gián tiếp làm cho người đọc có ấn tượng mạnh về tài năng của Huấn Cao. Tài năng đó giống như một huyền thoại được hết thảy mọi người kính phục.
- Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tài năng, Nguyễn Tuân còn tuyệt đối hóa tài năng của Huấn Cao, biến một con người có tài năng hơn người thành một bậc “thần thơ thánh chữ”.
- Một anh hùng khí phách hiên ngang
- Một con người “chọc trời khuấy nước”: Nguyễn Tuân khi xây dựng hình ảnh “người tù phản nghịch” đã ca ngợi tinh thần anh dũng, dám đứng dậy chống lại trật tự xã hội của Huấn Cao. Để tô đậm sự anh dũng của đó, Nguyễn Tuân đã mượn lời quản ngục: “… những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa huống chi là cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù…” ⇒ Khí phách con người thể hiện trong tầm vóc to lớn của công việc mà họ theo đuổi.
- Một phẩm chất hiên ngang dù đã sa cơ:
- Chi tiết cái gông nặng: ngay cả khi thất thế, Huấn Cao vẫn được coi là một kẻ “nguy hiểm”, cần chú ý đặc biệt ⇒ Thông qua tả một chi tiết tưởng như không liên quan, Nguyễn Tuân đã khắc sâu trong lòng độc giả ấn tượng về sự anh hùng của Huấn Cao.
- Huấn Cao dù bị giam cầm vẫn ung dung tự tại, coi nhà tù như giang sơn, vẫn hành động như lúc còn vẫy vùng trong thiên hạ (điềm nhiên rỗ gông, điềm nhiên nhận rượu thịt)
- Không sợ cường quyền, tỏ ra khinh bạc đến điều.
- Một con người xem nhẹ cái chết: Trước khi ra pháp trường, đối mặt với cái chết, người ta thường khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi. Thế nhưng Huấn Cao vẫn có thể đường hoàng viết ra những “nét chữ vuông vắn, tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
⇒ Khí phách của Huấn Cao được miêu tả vừa trực tiếp vừa gián tiếp kết hợp với nghệ thuật đối lập, bút pháp lý tưởng hóa, kết hợp kể và tả hành động, thái độ ⇒ có tác dụng khắc sâu, tô đậm bản lĩnh ngạo nghễ, ngang tàng của nhân vật.
- Trực tiếp qua những hành động của Huấn Cao (rỗ gông, thái độ trong tù và lời nói với người thơ lại, hành động tặng chữ)
- Gián tiếp qua suy nghĩ của viên quản ngục và người thơ lại, qua lời kể của nhà văn.
- Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa
- Một con người có thiên lương trong sáng
- Thiên lương thể hiện qua quan niệm về chữ và quyết định cho chữ:
- “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”: câu nói này đã tóm gọn triết lý sống mà cả cả cuộc đời Huấn Cao luôn có ý thức gìn giữ: “bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất” ⇒ chữ là thứ quý giá, là nghệ thuật cho nên chỉ trao tặng cho những ai xứng đáng với nó.
- Lý do tặng chữ: Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và vì sợ “phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” ⇒ Động cơ tặng chữ chữ rất trong sáng và cao quý. Hành động tặng chữ vừa là sự xúc động đạo đức – tri kỷ (tặng chữ là trả nghĩa) vừa là sự xúc động thẩm mỹ (cầm bút tức là sáng tạo).
- Thiên lương biểu hiện qua lời khuyên: “ở đây khó mà giữ thiên lương cho lành vững… ” ⇒ Huấn Cao không chỉ giữ thiên lương cho mình mà còn dùng chính thiên lương ấy tỏa sáng, hướng thiện, giúp người khác được khơi gợi thiên lương, cũng có được thiên lương ⇒ biểu hiện của bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa
- Sơ kết: Huấn Cao là nhân vật lý tưởng được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn lý tưởng hóa thể hiện tư tưởng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân đồng thời kết tinh quan điểm thẩm mỹ của nhà văn về nghệ thuật và con người:
- Nghệ thuật chân chính có một sức hấp dẫn kì lạ và có sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến con người.
- Cái đẹp chân chính phải là sự hội ngộ của cái Tài và cái Tâm.
c. Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục
- Nhân vật Huấn Cao và quản ngục được xây dựng song song, soi chiếu cho nhau.
- Hoàn cảnh sống: là quản ngục, sống giữa gông xiền và tội ác ⇒ dễ sa vào ác đạo, bùn nhơ.
- Nguyễn Tuân đã khái quát về nhân vật này trong một đoạn trữ tình ngoại đề: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Là một con người say mê cái tài và biết quý trọng cái Đẹp:
- Suy nghĩ: “Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình” ⇒ Lòng trọng người tài, trọng cái đẹp là tiêu chí để đánh giá nhân cách con người. Đó cũng là quan điểm sống của quản ngục.
- Sở nguyện: “một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”, “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất” ⇒ Sở nguyện cao quý ⇒ Cai tù nghệ sĩ.
- Hành động: trong thời gian Huấn Cao bị giam, quản ngục tỏ ra hết sức cung kính, “lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi” ⇒ Con người biết kính sợ trước cái đẹp, biết khâm phục trước cái tài, biết vị nể trước khí phách.
- Một con người dũng cảm, biết hướng thiện, dám sống theo lẽ phải, theo tiếng gọi của lương tri ⇒ có bản chất lương thiện
- Luôn day dứt khi chọn nhầm nghề, thường tự nhủ: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”
- Khi nghe tin tiếp nhận Huấn Cao, quản ngục rất lo lắng: “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương” ⇒ Mâu thuẫn giữa nghĩa vụ với triều đình và tiếng gọi của lương tâm. Quản ngục bị đặt trước tình thế phải chọn lựa.
- Trời gần sáng: “Những đường nhăn… bây giờ đã biết mất hẳn”, “ta muốn biệt đãi Huấn Cao… nhưng chỉ sợ… để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu” ⇒ Quyết định hành động theo tiếng gọi của lương tri nhưng còn thoáng băn khoăn.
- Thời gian tiếp đón Huấn Cao: nỗi băn khoăn biến mất. Quản ngục không giấu diếm tấm thịnh tình của mình.
- Rất xúc động trước lời khuyên của Huấn Cao: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.”
⇒ Không chỉ có Huấn Cao là người dũng cảm, mà cả quản ngục cũng vậy. Ông đã dám bước qua giới hạn của chức phận để làm theo lẽ sống cao quý của đời mình. Để thực hiện được lẽ sống đó, ngục quan phải chấp nhận mạo hiểm kể cả mạng sống của bản thân ⇒ Nhân vật đầy mâu thuẫn; là tù nhân trong chính môi trường của mình ⇒ Tính cách của nhân vật này bộc lộ trong sự giải quyết mâu thuẫn đó ⇒ quan điểm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người:
- Cái đẹp chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.
- Những con người biết quý trọng cái tài, yêu cái Đẹp không bao giờ là kẻ xấu, kẻ ác.
- Hoàn cảnh chỉ là công cụ thử thách và thước đo phẩm giá cho mỗi con người.
Sơ kết: Quản ngục là một con người có tâm hồn nghệ sĩ; biết say mê, quý trọng cái Tài, cái Đẹp đồng thời cũng là một con người có thiên lương trong sáng, cao đẹp. Nhân vật quản ngục góp phần tô đậm và làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao và quan niệm thẩm mỹ của nhà văn Nguyễn Tuân.
d. Cảnh cho chữ
- Nguyễn Tuân gọi cảnh cho chữ là một cảnh “xưa nay chưa từng có”:
- Không gian: Cho chữ là một hành động văn hóa, do đó thường diễn ra ở những địa điểm văn hóa. Nhưng ở đây, địa điểm đó lại là ở nhà giam, “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”.
- Thời gian:
- Bình diện vật lý: Việc cho chữ thường diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật. Nhưng ở đây, thời gian cho chữ lại là đêm khuya vắng vẻ: “đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh…”
- Bình diện tâm lý: Người ta thường tặng chữ cho nhau khi cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Nhưng ở đây, việc cho chữ lại diễn ra vài ngày trước khi Huấn Cao ra pháp trường. Do đó, đây không chỉ đơn giản là một hành động văn hóa nữa, mà nó còn là thời khắc Huấn Cao để lại di huấn cho đời.
- Vị thế nhân vật: Vị thế nhân vật bị đảo lộn
- Đảo lộn về quyền uy: uy quyền thuộc về kẻ đã bị tước hết mọi quyền, kể cả quyền sống.
- Đảo lộn về thái độ: Người không có lý do để khúm núm thì lại khúm núm, người có vô số lý do để sợ thì lại bình thản.
- Đảo lộn về chức phận: Quản ngục là người có vai trò giáo dục tù nhân thì lại bị tù nhân là Huấn Cao dạy về đạo đức.
- Quan niệm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người:
- Cái Đẹp không bao giờ lẻ loi, đơn độc dù trong bất kì hoàn cảnh nào;
- Cái Đẹp có thể nảy sinh từ cái xấu nhưng không thể tồn tại cùng cái xấu;
- Nghệ thuật chân chính có khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn” (Nam Cao) thậm chí nhân đạo hóa con người;
- Con người muốn thực sự xứng đáng với cái Đẹp thì phải đoạn tuyệt với cái xấu, cái ác.
- Nguyên nhân của sự đảo lộn: cái Đẹp và quy luật của nó
e. Đặc sắc nghệ thuật
a. Bút pháp lãng mạn
- Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa: Miêu tả con người trong sự toàn thiện, toàn mỹ
- Huấn Cao: hiện lên sừng sững như một bức tượng đài. Con người này tập trung ở mức đỉnh cao cả ba phẩm chất Nhân - Trí – Dũng.
- Quản ngục: sự ngưỡng mộ đối với cái đẹp cũng đạt đến mức kì lạ.
- Thủ pháp đối lập:
- Trong xây dựng nhân vật:
- Đối lập giữa Huấn Cao và quản ngục
- Đối lập trong bản thân nhân vật quản ngục
- Trong miêu tả cảnh vật: cảnh cho chữ
- Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối
- Đối lập giữa cái Thiện, cái Đẹp và cái xấu xa, nhơ bẩn
b. Ngôn ngữ cổ kính, giàu tính tạo hình
- Từ ngữ Hán Việt tạo không khí cổ kính
- Nghệ thuật miêu tả giàu tính điện ảnh
Tổng kết
-
Về nội dung
- Ca ngợi nhân vật Huấn Cao - một con người tài năng, có cái tâm trong sáng và có khí phách hiên ngang.
- Thể hiện quan niệm của nhà văn về cái đẹp, về sức mạnh và sự bất tử của cái Đẹp.
- Bộc lộ lòng yêu nước sâu kín.
-
Về nghệ thuật
- Tạo dựng tình huống độc đáo, đặc sắc.
- Sử dụng thành công thủ pháp đối lập, tương phản, lý tưởng hóa.
- Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, vừa cổ kính vừa hiện đại.
Ví dụ:
Đề: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Gợi ý làm bài:
a. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu nhân vật
b. Thân bài
- Khái quát
- Tuyệt tác “Vang bóng một thời” (1940) là tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Tuân, trong đó bật lên đỉnh cao nhất là “Chữ người tử tù”. Tác phẩm in lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn năm 1939 với nhan đề “Dòng chữ cuối cùng”.
- Phân tích
- Giới thiệu chung về nhân vật:
- Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Huấn Cao không chỉ là một tài tử, tài hoa thường gặp trong văn Nguyễn Tuân mà là một đấng tài hoa anh hùng. Đây là một nhân vật chân dung sắc sảo theo lối lí tưởng hoá của bút pháp lãng mạn. Khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu là nhân vật Cao Bá Quát - một nhà thơ có lí tưởng cao cả. Cái cao khiết trong con người ông được thể hiện qua câu đối: (Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/Nhất sinh đê thủ bái mai hoa)
- Phân tích nhân vật:
Luận điểm 1: Một con người tài hoa, văn võ song toàn:
- Huấn Cao có tài viết chữ đẹp. Tài thư pháp của Huấn Cao được thể hiện gián tiếp qua những lời nói, thái độ và hành động trầm trồ, ngưỡng mộ của viên quản ngục và thầy thơ lại: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, “thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!”.
- Đúng là ông Huấn “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Mỗi nét chữ đều “vuông lắm, đẹp lắm” - không chỉ đẹp ở sự vuông vức, sắc nét và tươi tắn mà quan trọng hơn đó là “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Có hiểu như thế mới cắt nghĩa được vì sao “có được chữ ông Huấn mà treo, là hơn có một vật báu trên đời”.
- Không chỉ viết chữ đẹp mà Huấn Cao còn có tài bẻ khóa và vượt ngục, còn là một người lãnh đạo nghĩa quân chống lại triều đình. Tất cả đã thể hiện niềm ngưỡng mộ của nhà văn Nguyễn Tuân trước một con người song toàn văn võ.
Luận điểm 2: Một con người có khí phách, hiên ngang, bất khuất.
- Trước khi vào tù, Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, bị xử án chém.
- Ông bình thản, tự chủ, lạnh lùng trước cường quyền. Ngay ngày đầu tiên nhận tù, chỉ sau câu nói đùa của tên lính áp giải, Huấn Cao đã “lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã để Huấn Cao xuất hiện lần đầu trong thiên truyện với chi tiết “dỗ gông” như thế. Đó là hành động biểu thị tự do, cho thấy việc gì ông muốn làm là làm, dù có khó khăn đến đâu hay có được phép hay không,…
- Nhà tù đã bị Huấn Cao biến thành giang sơn mình làm chủ khi ông “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm”
- Thái độ lạnh lùng, khinh bạc của Huấn Cao được Nguyễn Tuân khai thác triệt để. Huấn Cao nói rất ít, nhưng mỗi lời nói là một mệnh lệnh, một sự sai khiến dứt khoát, rắn rỏi: “Phải dỗ gông đi”, “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Đúng là giọng “khinh bạc đến điều”.
- Cổ mang gông, chân vướng xiềng, đợi ngày lên đoạn đầu đài nhưng ông Huấn vẫn ung dung, thanh thản, đường hoàng và lẫm liệt.
Luận điểm 3: Một con người có “thiên lương” trong sáng.
- Thiên lương ở Huấn Cao trước tiên là giữ vững nhân cách của mình. Nhân vật đã thể hiện một cách đầy ý thức sự thống nhất giữa cái tài và cái tâm Con người này không hề bị lay chuyển bởi sức mạnh của cường quyền hay tiền bạc, có tài nhưng không bao giờ dùng tài của mình để mưu lợi cho riêng mình hay phục vụ cho kẻ phi nghĩa: “Tính ông vốn khoảnh, từ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông cũng đã khẳng định: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
- Thiên lương ở Huấn Cao thể hiện ở tấm lòng. Một tấm lòng thuần khiết nằm ngay trong cái vẻ kiêu bạc gai góc. Sau khi đã hiểu “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”; nhận rõ viên quản có “sở thích cao quý”, là người còn giữ được “thiên lương”, ông Huấn đã nhận ra đây là một đóm sáng giữa đêm đen, một nốt nhạc trong trẻo giữa âm thanh hỗn loạn, Huấn Cao đã vô cùng xúc động. Trong mắt người đọc, không còn một Huấn Cao lạnh lùng – khinh bạc nữa mà là một người hiền hoà, độ lượng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Kẻ “chọc trời khuấy nước” không sợ uy quyền, tù ngục, “đến cái cảnh chết chém ông còn chẳng sợ …” nhưng Huấn Cao sợ nhất là “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, nhất là tấm lòng đó là một tấm lòng biết yêu cái đẹp; biết giữ được “thiên lương” giữa bóng tối và tội ác như quản ngục và thầy thơ lại,…
- Cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cùng với việc cho chữ, ông Huấn đã dặn dò viên quan coi ngục những lời tâm huyết nhất của đời mình. Ông khuyên viên quản ngục hãy thay đổi chốn ở, thoát khỏi cái nghề cai ngục rồi hãy “nghĩ đến chuyện chơi chữ”. Người yêu cái đẹp không thể vẫn làm cái ác, con người chỉ có thể xứng đáng được hưởng cái đẹp khi giữ “thiên lương” lành vững. Đó là lời khuyên xuất phát từ một tấm lòng dành cho một tấm lòng.
- Đánh giá
- Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất đời văn của Nguyễn Tuân.
- Nhân vật thể hiện quan niệm của tác giả về cái đẹp trong nghệ thuật và trong cuộc sống.
c. Kết bài
- Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang bất khuât. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
- Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dụng cách, khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
1. Tìm hiểu chung
a. Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987)
- Quê ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, Thanh Xuân, Hà Nội.
- Sinh ra trong gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn à am hiểu cuộc sống của nhà nho, nhất là những nền nếp, những thú chơi tao nhã của người xưa.
- 1945, đến với cách mạng và dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến
- Phong cách nghệ thuật và khuynh hướng sáng tác:
- Nguyễn Tuân là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn. Điều này thể hiện rõ trong đề tài, bút pháp xây dựng nhân vật,…
- Là nhà văn của những tính cách độc đáo, những cảm xúc mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mỹ à được mệnh danh “người săn tìm cái Đẹp”, luôn nhìn con người từ phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
- Là nhà văn thành công ở thể loại bút kí, tùy bút với phong cách uyên bác, tài hoa độc đáo.
- Ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Tuân rất ấn tượng, hấp dẫn. Ông được mệnh danh là “bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ”.
⇒ Nguyễn Tuân là nhà văn lớn, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp; có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1996, ông được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
b. Tác phẩm
- Xuất xứ, tên gọi
- Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ban đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng”, in năm 1938 trên báo Tao Đàn.
- Năm 1940: được tuyển in trong tập truyện “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù” ⇒ Truyện ngắn này nằm trong mạch cảm hứng chung của toàn tập truyện: ca ngợi và khẳng định cái Đẹp trong quá khứ ⇒ chữ/cái Đẹp mới là trung tâm chứ không phải người.
- Bố cục
- Phần 1: từ đầu đến “rồi sẽ liệu” ⇒ tâm trạng của quản ngục khi nghe tin tiếp nhận tù nhân.
- Phần 2: đoạn tiếp theo đến “một tấm lòng trong thiên hạ” ⇒ quá trình xin chữ
- Phần 3: còn lại à cảnh cho chữ
2. Đọc - hiểu văn bản
a. Tình huống truyện
- Khái niệm: “là cái tình thế nảy sinh ra truyện mà ở thời điểm đó sự sống hiện lên đậm đặc nhất”; “là lát cắt, là khúc cua đời sống, nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn Minh Châu) ⇒ là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa mà ở đó, nhân vật xuất hiện và bộc lộ tính cách, chủ đề của tác phẩm và dụng ý của nhà văn, do đó cũng tự thân bộc lộ.
- Tình huống truyện là cuộc gặp gỡ giữa viên quản ngục và Huấn Cao - một tội phạm nguy hiểm của triều đình đang chờ ngày ra pháp trường.
- Đây là một tình huống hợp lý nhưng éo le và đầy kịch tính (xét về không gian, thời gian, thân phận nhân vật)
- Vai trò của tình huống truyện:
- Là điều kiện giúp các nhân vật bộc lộ tính cách:
- Tạo ra kịch tính cho truyện, tăng sức hấp dẫn
- Giúp nhà văn thể hiện trọn vẹn tư tưởng chủ đề của tác phẩm
b. Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao
- Hoàn cảnh: người anh hùng thất thế ⇒ hoàn cảnh dễ làm con người sống thỏa hiệp, hèn hạ.
- Nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
- Hình ảnh “Một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”, “Một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định” ⇒ thể hiện tấm lòng ưu ái của Nguyễn Tuân dành cho nhân vật Huấn Cao.
- Trong tác phẩm, Huấn Cao được miêu tả trên 3 bình diện: một nghệ sĩ tài hoa, một anh hùng giàu khí phách và một con người có thiên lương trong sáng:
- Một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp
- Tài năng của Huấn Cao được miêu tả một cách gián tiếp:
- Qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại: “thầy có nghe thấy người ta đồn Huấn Cao ngoài cái tài viết chữ tốt lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục nữa không?”, “…Cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, “nhiều người nhắc nhỏm đếm cái danh đó luôn…”, “thế ra y văn võ đều có tài cả”.
- Qua hành động và suy nghĩ của kẻ đối địch - quản ngục: Viên quản ngục bất chấp mạo hiểm để đối đãi tử tế với Huấn Cao, chỉ mong đạt được sở nguyện là “một ngày kia được treo riêng ở nhà mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm […] Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”
⇒ Cách miêu tả gián tiếp làm cho người đọc có ấn tượng mạnh về tài năng của Huấn Cao. Tài năng đó giống như một huyền thoại được hết thảy mọi người kính phục.
- Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tài năng, Nguyễn Tuân còn tuyệt đối hóa tài năng của Huấn Cao, biến một con người có tài năng hơn người thành một bậc “thần thơ thánh chữ”.
- Một anh hùng khí phách hiên ngang
- Một con người “chọc trời khuấy nước”: Nguyễn Tuân khi xây dựng hình ảnh “người tù phản nghịch” đã ca ngợi tinh thần anh dũng, dám đứng dậy chống lại trật tự xã hội của Huấn Cao. Để tô đậm sự anh dũng của đó, Nguyễn Tuân đã mượn lời quản ngục: “… những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa huống chi là cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù…” ⇒ Khí phách con người thể hiện trong tầm vóc to lớn của công việc mà họ theo đuổi.
- Một phẩm chất hiên ngang dù đã sa cơ:
- Chi tiết cái gông nặng: ngay cả khi thất thế, Huấn Cao vẫn được coi là một kẻ “nguy hiểm”, cần chú ý đặc biệt ⇒ Thông qua tả một chi tiết tưởng như không liên quan, Nguyễn Tuân đã khắc sâu trong lòng độc giả ấn tượng về sự anh hùng của Huấn Cao.
- Huấn Cao dù bị giam cầm vẫn ung dung tự tại, coi nhà tù như giang sơn, vẫn hành động như lúc còn vẫy vùng trong thiên hạ (điềm nhiên rỗ gông, điềm nhiên nhận rượu thịt)
- Không sợ cường quyền, tỏ ra khinh bạc đến điều.
- Một con người xem nhẹ cái chết: Trước khi ra pháp trường, đối mặt với cái chết, người ta thường khó tránh khỏi cảm giác sợ hãi. Thế nhưng Huấn Cao vẫn có thể đường hoàng viết ra những “nét chữ vuông vắn, tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”.
⇒ Khí phách của Huấn Cao được miêu tả vừa trực tiếp vừa gián tiếp kết hợp với nghệ thuật đối lập, bút pháp lý tưởng hóa, kết hợp kể và tả hành động, thái độ ⇒ có tác dụng khắc sâu, tô đậm bản lĩnh ngạo nghễ, ngang tàng của nhân vật.
- Trực tiếp qua những hành động của Huấn Cao (rỗ gông, thái độ trong tù và lời nói với người thơ lại, hành động tặng chữ)
- Gián tiếp qua suy nghĩ của viên quản ngục và người thơ lại, qua lời kể của nhà văn.
- Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa
- Một con người có thiên lương trong sáng
- Thiên lương thể hiện qua quan niệm về chữ và quyết định cho chữ:
- “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”: câu nói này đã tóm gọn triết lý sống mà cả cả cuộc đời Huấn Cao luôn có ý thức gìn giữ: “bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất” ⇒ chữ là thứ quý giá, là nghệ thuật cho nên chỉ trao tặng cho những ai xứng đáng với nó.
- Lý do tặng chữ: Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì “cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và vì sợ “phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” ⇒ Động cơ tặng chữ chữ rất trong sáng và cao quý. Hành động tặng chữ vừa là sự xúc động đạo đức – tri kỷ (tặng chữ là trả nghĩa) vừa là sự xúc động thẩm mỹ (cầm bút tức là sáng tạo).
- Thiên lương biểu hiện qua lời khuyên: “ở đây khó mà giữ thiên lương cho lành vững… ” ⇒ Huấn Cao không chỉ giữ thiên lương cho mình mà còn dùng chính thiên lương ấy tỏa sáng, hướng thiện, giúp người khác được khơi gợi thiên lương, cũng có được thiên lương ⇒ biểu hiện của bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa
- Sơ kết: Huấn Cao là nhân vật lý tưởng được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn lý tưởng hóa thể hiện tư tưởng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân đồng thời kết tinh quan điểm thẩm mỹ của nhà văn về nghệ thuật và con người:
- Nghệ thuật chân chính có một sức hấp dẫn kì lạ và có sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến con người.
- Cái đẹp chân chính phải là sự hội ngộ của cái Tài và cái Tâm.
c. Vẻ đẹp của nhân vật quản ngục
- Nhân vật Huấn Cao và quản ngục được xây dựng song song, soi chiếu cho nhau.
- Hoàn cảnh sống: là quản ngục, sống giữa gông xiền và tội ác ⇒ dễ sa vào ác đạo, bùn nhơ.
- Nguyễn Tuân đã khái quát về nhân vật này trong một đoạn trữ tình ngoại đề: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Là một con người say mê cái tài và biết quý trọng cái Đẹp:
- Suy nghĩ: “Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình” ⇒ Lòng trọng người tài, trọng cái đẹp là tiêu chí để đánh giá nhân cách con người. Đó cũng là quan điểm sống của quản ngục.
- Sở nguyện: “một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”, “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời mất” ⇒ Sở nguyện cao quý ⇒ Cai tù nghệ sĩ.
- Hành động: trong thời gian Huấn Cao bị giam, quản ngục tỏ ra hết sức cung kính, “lòng kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi” ⇒ Con người biết kính sợ trước cái đẹp, biết khâm phục trước cái tài, biết vị nể trước khí phách.
- Một con người dũng cảm, biết hướng thiện, dám sống theo lẽ phải, theo tiếng gọi của lương tri ⇒ có bản chất lương thiện
- Luôn day dứt khi chọn nhầm nghề, thường tự nhủ: “Có lẽ lão bát này cũng là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi”
- Khi nghe tin tiếp nhận Huấn Cao, quản ngục rất lo lắng: “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương” ⇒ Mâu thuẫn giữa nghĩa vụ với triều đình và tiếng gọi của lương tâm. Quản ngục bị đặt trước tình thế phải chọn lựa.
- Trời gần sáng: “Những đường nhăn… bây giờ đã biết mất hẳn”, “ta muốn biệt đãi Huấn Cao… nhưng chỉ sợ… để mai ta dò ý tứ hắn xem sao rồi sẽ liệu” ⇒ Quyết định hành động theo tiếng gọi của lương tri nhưng còn thoáng băn khoăn.
- Thời gian tiếp đón Huấn Cao: nỗi băn khoăn biến mất. Quản ngục không giấu diếm tấm thịnh tình của mình.
- Rất xúc động trước lời khuyên của Huấn Cao: “Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chấp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh.”
⇒ Không chỉ có Huấn Cao là người dũng cảm, mà cả quản ngục cũng vậy. Ông đã dám bước qua giới hạn của chức phận để làm theo lẽ sống cao quý của đời mình. Để thực hiện được lẽ sống đó, ngục quan phải chấp nhận mạo hiểm kể cả mạng sống của bản thân ⇒ Nhân vật đầy mâu thuẫn; là tù nhân trong chính môi trường của mình ⇒ Tính cách của nhân vật này bộc lộ trong sự giải quyết mâu thuẫn đó ⇒ quan điểm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người:
- Cái đẹp chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.
- Những con người biết quý trọng cái tài, yêu cái Đẹp không bao giờ là kẻ xấu, kẻ ác.
- Hoàn cảnh chỉ là công cụ thử thách và thước đo phẩm giá cho mỗi con người.
Sơ kết: Quản ngục là một con người có tâm hồn nghệ sĩ; biết say mê, quý trọng cái Tài, cái Đẹp đồng thời cũng là một con người có thiên lương trong sáng, cao đẹp. Nhân vật quản ngục góp phần tô đậm và làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao và quan niệm thẩm mỹ của nhà văn Nguyễn Tuân.
d. Cảnh cho chữ
- Nguyễn Tuân gọi cảnh cho chữ là một cảnh “xưa nay chưa từng có”:
- Không gian: Cho chữ là một hành động văn hóa, do đó thường diễn ra ở những địa điểm văn hóa. Nhưng ở đây, địa điểm đó lại là ở nhà giam, “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián”.
- Thời gian:
- Bình diện vật lý: Việc cho chữ thường diễn ra lúc thanh thiên bạch nhật. Nhưng ở đây, thời gian cho chữ lại là đêm khuya vắng vẻ: “đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh…”
- Bình diện tâm lý: Người ta thường tặng chữ cho nhau khi cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Nhưng ở đây, việc cho chữ lại diễn ra vài ngày trước khi Huấn Cao ra pháp trường. Do đó, đây không chỉ đơn giản là một hành động văn hóa nữa, mà nó còn là thời khắc Huấn Cao để lại di huấn cho đời.
- Vị thế nhân vật: Vị thế nhân vật bị đảo lộn
- Đảo lộn về quyền uy: uy quyền thuộc về kẻ đã bị tước hết mọi quyền, kể cả quyền sống.
- Đảo lộn về thái độ: Người không có lý do để khúm núm thì lại khúm núm, người có vô số lý do để sợ thì lại bình thản.
- Đảo lộn về chức phận: Quản ngục là người có vai trò giáo dục tù nhân thì lại bị tù nhân là Huấn Cao dạy về đạo đức.
- Quan niệm của Nguyễn Tuân về nghệ thuật và con người:
- Cái Đẹp không bao giờ lẻ loi, đơn độc dù trong bất kì hoàn cảnh nào;
- Cái Đẹp có thể nảy sinh từ cái xấu nhưng không thể tồn tại cùng cái xấu;
- Nghệ thuật chân chính có khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn” (Nam Cao) thậm chí nhân đạo hóa con người;
- Con người muốn thực sự xứng đáng với cái Đẹp thì phải đoạn tuyệt với cái xấu, cái ác.
- Nguyên nhân của sự đảo lộn: cái Đẹp và quy luật của nó
e. Đặc sắc nghệ thuật
a. Bút pháp lãng mạn
- Bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa: Miêu tả con người trong sự toàn thiện, toàn mỹ
- Huấn Cao: hiện lên sừng sững như một bức tượng đài. Con người này tập trung ở mức đỉnh cao cả ba phẩm chất Nhân - Trí – Dũng.
- Quản ngục: sự ngưỡng mộ đối với cái đẹp cũng đạt đến mức kì lạ.
- Thủ pháp đối lập:
- Trong xây dựng nhân vật:
- Đối lập giữa Huấn Cao và quản ngục
- Đối lập trong bản thân nhân vật quản ngục
- Trong miêu tả cảnh vật: cảnh cho chữ
- Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối
- Đối lập giữa cái Thiện, cái Đẹp và cái xấu xa, nhơ bẩn
b. Ngôn ngữ cổ kính, giàu tính tạo hình
- Từ ngữ Hán Việt tạo không khí cổ kính
- Nghệ thuật miêu tả giàu tính điện ảnh
Tổng kết
-
Về nội dung
- Ca ngợi nhân vật Huấn Cao - một con người tài năng, có cái tâm trong sáng và có khí phách hiên ngang.
- Thể hiện quan niệm của nhà văn về cái đẹp, về sức mạnh và sự bất tử của cái Đẹp.
- Bộc lộ lòng yêu nước sâu kín.
-
Về nghệ thuật
- Tạo dựng tình huống độc đáo, đặc sắc.
- Sử dụng thành công thủ pháp đối lập, tương phản, lý tưởng hóa.
- Ngôn ngữ góc cạnh, giàu hình ảnh, vừa cổ kính vừa hiện đại.
Ví dụ:
Đề: Phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.
Gợi ý làm bài:
a. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Giới thiệu nhân vật
b. Thân bài
- Khái quát
- Tuyệt tác “Vang bóng một thời” (1940) là tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Tuân, trong đó bật lên đỉnh cao nhất là “Chữ người tử tù”. Tác phẩm in lần đầu tiên trên tạp chí Tao Đàn năm 1939 với nhan đề “Dòng chữ cuối cùng”.
- Phân tích
- Giới thiệu chung về nhân vật:
- Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Huấn Cao không chỉ là một tài tử, tài hoa thường gặp trong văn Nguyễn Tuân mà là một đấng tài hoa anh hùng. Đây là một nhân vật chân dung sắc sảo theo lối lí tưởng hoá của bút pháp lãng mạn. Khi xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu là nhân vật Cao Bá Quát - một nhà thơ có lí tưởng cao cả. Cái cao khiết trong con người ông được thể hiện qua câu đối: (Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/Nhất sinh đê thủ bái mai hoa)
- Phân tích nhân vật:
Luận điểm 1: Một con người tài hoa, văn võ song toàn:
- Huấn Cao có tài viết chữ đẹp. Tài thư pháp của Huấn Cao được thể hiện gián tiếp qua những lời nói, thái độ và hành động trầm trồ, ngưỡng mộ của viên quản ngục và thầy thơ lại: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp…”, “thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!”.
- Đúng là ông Huấn “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Mỗi nét chữ đều “vuông lắm, đẹp lắm” - không chỉ đẹp ở sự vuông vức, sắc nét và tươi tắn mà quan trọng hơn đó là “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Có hiểu như thế mới cắt nghĩa được vì sao “có được chữ ông Huấn mà treo, là hơn có một vật báu trên đời”.
- Không chỉ viết chữ đẹp mà Huấn Cao còn có tài bẻ khóa và vượt ngục, còn là một người lãnh đạo nghĩa quân chống lại triều đình. Tất cả đã thể hiện niềm ngưỡng mộ của nhà văn Nguyễn Tuân trước một con người song toàn văn võ.
Luận điểm 2: Một con người có khí phách, hiên ngang, bất khuất.
- Trước khi vào tù, Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, bị xử án chém.
- Ông bình thản, tự chủ, lạnh lùng trước cường quyền. Ngay ngày đầu tiên nhận tù, chỉ sau câu nói đùa của tên lính áp giải, Huấn Cao đã “lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã để Huấn Cao xuất hiện lần đầu trong thiên truyện với chi tiết “dỗ gông” như thế. Đó là hành động biểu thị tự do, cho thấy việc gì ông muốn làm là làm, dù có khó khăn đến đâu hay có được phép hay không,…
- Nhà tù đã bị Huấn Cao biến thành giang sơn mình làm chủ khi ông “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm”
- Thái độ lạnh lùng, khinh bạc của Huấn Cao được Nguyễn Tuân khai thác triệt để. Huấn Cao nói rất ít, nhưng mỗi lời nói là một mệnh lệnh, một sự sai khiến dứt khoát, rắn rỏi: “Phải dỗ gông đi”, “Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Đúng là giọng “khinh bạc đến điều”.
- Cổ mang gông, chân vướng xiềng, đợi ngày lên đoạn đầu đài nhưng ông Huấn vẫn ung dung, thanh thản, đường hoàng và lẫm liệt.
Luận điểm 3: Một con người có “thiên lương” trong sáng.
- Thiên lương ở Huấn Cao trước tiên là giữ vững nhân cách của mình. Nhân vật đã thể hiện một cách đầy ý thức sự thống nhất giữa cái tài và cái tâm Con người này không hề bị lay chuyển bởi sức mạnh của cường quyền hay tiền bạc, có tài nhưng không bao giờ dùng tài của mình để mưu lợi cho riêng mình hay phục vụ cho kẻ phi nghĩa: “Tính ông vốn khoảnh, từ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông cũng đã khẳng định: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”.
- Thiên lương ở Huấn Cao thể hiện ở tấm lòng. Một tấm lòng thuần khiết nằm ngay trong cái vẻ kiêu bạc gai góc. Sau khi đã hiểu “tấm lòng biệt nhỡn liên tài”; nhận rõ viên quản có “sở thích cao quý”, là người còn giữ được “thiên lương”, ông Huấn đã nhận ra đây là một đóm sáng giữa đêm đen, một nốt nhạc trong trẻo giữa âm thanh hỗn loạn, Huấn Cao đã vô cùng xúc động. Trong mắt người đọc, không còn một Huấn Cao lạnh lùng – khinh bạc nữa mà là một người hiền hoà, độ lượng: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Kẻ “chọc trời khuấy nước” không sợ uy quyền, tù ngục, “đến cái cảnh chết chém ông còn chẳng sợ …” nhưng Huấn Cao sợ nhất là “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, nhất là tấm lòng đó là một tấm lòng biết yêu cái đẹp; biết giữ được “thiên lương” giữa bóng tối và tội ác như quản ngục và thầy thơ lại,…
- Cảnh cho chữ là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Cùng với việc cho chữ, ông Huấn đã dặn dò viên quan coi ngục những lời tâm huyết nhất của đời mình. Ông khuyên viên quản ngục hãy thay đổi chốn ở, thoát khỏi cái nghề cai ngục rồi hãy “nghĩ đến chuyện chơi chữ”. Người yêu cái đẹp không thể vẫn làm cái ác, con người chỉ có thể xứng đáng được hưởng cái đẹp khi giữ “thiên lương” lành vững. Đó là lời khuyên xuất phát từ một tấm lòng dành cho một tấm lòng.
- Đánh giá
- Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất đời văn của Nguyễn Tuân.
- Nhân vật thể hiện quan niệm của tác giả về cái đẹp trong nghệ thuật và trong cuộc sống.
c. Kết bài
- Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang bất khuât. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước.
- Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dụng cách, khắc họa tính cách nhân vật, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình.