Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch

Bùi Thế Hiển
Admin 24 Tháng chín, 2021

TimDapAnxin giới thiệu tới các bạn bài viết Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Lý Bạch được trích dẫn qua tác phẩm "Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng" nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

Lý Bạch, một nhà thơ phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân, nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng… Đề tài nào cũng có những bài tuyệt tác.

1. Tóm tắt lý lịch Lý Bạch

Nhà thơ Lý Bạch sinh ngày 19-5-701 sau Công nguyên tại Thành phố Tây Vực, nước Trung Quốc, mất ngày 30 tháng 11, 762 sau Công nguyên.

Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Trường Giang, nước Trung Quốc. Ông sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) trâu (Tân Sửu 701). Lý Bạch xếp hạng nổi tiếng thứ 31130 trên thế giới và thứ 84 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.

2. Tiểu sử nhà thơ Lý Bạch

Lý Bạch là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thời đường tại Trung Hoa. Ông được hậu thế gọi là "Thi tiên" (tức là thơ tiên), là một Thi tiên vĩ đại của đất nước Trung Quốc. Ông còn có bút hiệu khác là Thái Bạch, Tràng Canh,Thanh Liên cư sĩ. Ông còn được gọi là Tửu trung tiên, Lý Trích Tiên.

Năm 15 tuổi, nhà thơ Lý Bạch viết bài phú ngạo khá nổi tiếng, có tên "Tư Mã Tương Như" để gửi cho Hàn Kinh Châu.

Năm 16 tuổi, cái tên Lý Bạch đã nổi tiếng khắp vùng Tứ Xuyên. Nhưng vì chán trần gian nên nhà thơ Lý Bạch đã bỏ lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.

Trong sự nghiệp văn chương, nhà thơ Lý Bạch đã sáng tác hơn 20.000 bài thơ, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép hơn cả. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người đời truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly mới gom góp lại tập thơ Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

Trong thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).

Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú. Những bài thơ tiêu biểu như:

  • Nguyệt Hạ Độc Chước
  • Một mình uống rượu dưới trăng
  • Vọng Lư sơn bộc bố
  • Xa ngắm thác núi Lư
  • Hành lộ nan
  • Đường đi khó
  • Sắp mời rượu
  • Thanh bình điệu kỳ 1
  • Bài ca người hiệp khách ( Sau này, được Kim Dung dựng thành phim) ...

3. Lý Bạch thời trẻ

Lý Bạch ở Lũng Tây, Cam Túc suốt thời thơ ấu, được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ.

Sinh ra trong một gia đình khá giả nên từ nhỏ Lý Bạch đã được đi đây đi đó nhiều nơi cùng cha.

Năm ông 10 tuổi, gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.

Năm ông 15 tuổi, ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ.

Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Tràng An...

Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như".

Từ năm 723, ông ngao du, tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...

Năm 735 trước công nguyên, trong một dịp đi chơi ở Thái Nguyên, nhà thơ Lý Bạch đã gặp được Quách Tử Nghi. Khi Lý Bạch cùng vợ còn về định cư ở Nhiệm Thành thì gặp được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời. Lý Bạch cùng các ẩn sĩ rủ nhau lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".

Từ năm 741, nhà thơ Lý Bạch đi đến đâu, danh tiếng lan đến đó. Từ Hồ Nam đến Giang Tô rồi qua Sơn Đông... .

Năm 742, ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở ẩn tại Thiểm Trung. Sau đó, hai người cùng về Trường An, ở đây ông gặp thái tử tân khách Hạ Tri Chương. Hai người trở thành đôi bạn rượu-thơ thân thiết. Hạ Tri Chương tiến cử Lý Bạch với vua Đường Minh Hoàng, vua Đường nghe danh đã lâu nên rất thích, liền mời Lý Bạch vào điện Kim Loan giao việc thảo thư từ, sau được phong vị Hàn Lâm.

Từ năm 745, cuộc sống trong cung có làm kẻ gièm pha, nên ông đã rời cung đi du lãm. Trên đường đi, Lý Bạch gặp và kết thân tình với nhiều thi sĩ như Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích...

Khoảng năm 755, khi đang ở ẩn tại Bình phong Điệp cùng Nguỵ Hạo ở Quảng Lăng. Lý Bạch được Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời về phủ. Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Uý đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757 bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm xuống tội đi đày.

Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó, tuy nhiên tuổi già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng. Đến năm 762, vua Đường Đại Tông lên ngôi, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi.

4. Cuộc sống gia đình Lý Bạch

Lý Bạch từng trải qua bốn lần kết duyên, trong đó có hai người vợ cưới xin chính thức. Hứa thị phu nhân là người vợ chính thức đầu tiên (cháu gái của Hứa tướng công).

Năm 736, Hứa thị phu nhân bất hạnh qua đời. Đây chính là cú sốc rất lớn đối với Lý Bạch.

Nhưng phu nhân mất đi, với thân phận ở rể, Lý Bạch càng bị coi không ra gì. Không ai muốn gánh tránh nhiệm nuôi hai đứa con giúp ông. Biết khó lòng tiếp tục sống ở nhà họ Hứa nên ông đã vội vàng đưa hai đứa con chuyển đến sống ở Đông Lỗ (Sơn Đông).

Nơi Lý Bạch chuyển đến nằm ở phía đông ngoại thành Hà Khâu, quận Duyễn Châu (nay thuộc huyện Duyễn Châu, tỉnh Sơn Đông), cách Khúc Phụ khoảng 30 dặm. Ở đây, ông đã quyết định chung sống với một người đàn bà họ Lưu để có thể nhờ cô ấy gánh vác tránh nhiệm chăm sóc hai đứa con. Không ngờ người con gái ấy khi biết mục đích của Lý Bạch nên đã vội vàng bỏ đi.

Không còn cách nào khác, Lý Bạch lại phải nhờ cậy bạn bè mai mối cho một phụ nữ khác và miễn cưỡng chung sống. Ông sống cùng người đàn bà bụng dạ hẹp hòi nhưng vẫn cố chịu vì những đứa con. Hai ông bà sinh được một đứa con trai nhưng sau này tuyệt nhiên không thấy ông nhắc đến.

Từ khi Lý Bạch phụng mệnh vào kinh sống ở Khai Phong và thường xuyên đi khắp nơi, ông vẫn gửi hai đứa con ở Diêu Châu, Sơn Đông. Sau khi trở về Khai Phong, ông đã lấy cháu gái của tể tướng Tông Sở Khách và tiếp tục “kiếp ở rể” nhà hộ Tông. Đây cũng chính là cuộc hôn nhân chính thức thứ hai và là người vợ thứ tư của ông.

Khi đã yên bề gia thất, ông rất muốn đón ngay hai con đến sống cùng mình để chúng được hưởng sự ấm áp của tình cảm gia đình. Ông muốn chúng được sống, học tập, khôn lớn trong môi trường bình thường, nhưng đáng tiếc những đứa trẻ không được hưởng niềm vui đó.

Vì thương nhớ con và cảm thấy bứt rứt, Lý Bạch lại vội vàng ra đi, lang bạt chân trời góc bể.

Không lâu sau, Tông phu nhân chạy loạn cũng đến Lư Sơn tìm chồng. Cuối cùng vì chiến loạn mà hai người có duyên trùng phùng. Nhưng sau này hai người lại thất lạc nhau và từ đó ông không còn gặp lại Tông phu nhân nữa.

Tham khảo thêm


Xem thêm