Khởi nghĩa Bãi Sậy
- 1. Thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy
- 2. Địa điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1982)
- 3. Hưởng ứng chiếu Cần Vương
- 4. Khởi nghĩa Bãi Sậy bước vào giai đoạn kết thúc
- 5. Nguyên nhân của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
- 6. Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy
- 7. Ý nghĩa của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
- 8. Tính chất cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong những cuộc khởi nghĩa nổ ra vào cuối thế kỷ XIX với mục đích chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp. Vậy cuộc khởi nghĩa này diễn ra như thế nào và có đặc điểm gì nổi bật? Nguyên nhân, diễn biến, tính chất, kết quả, ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì? Mời các bạn cùng TimDapAntham khảo trong bài viết sau đây.
1. Thời gian diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy
Khởi nghĩa Bãi Sậy là một trong các cuộc khởi nghĩa nằm trong phong trào Cần Vương diễn ra vào cuối thế kỷ XIX của nhân dân Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này nổ ra nhằm chống lại ách đô hộ của thực dân Pháp và được diễn ra từ năm 1883 và kéo dài tới năm 1982 mới chính thức kết thúc.
Trong thời kỳ đầu diễn ra khởi nghĩa (1883 – 1885), phong trào do Đinh Gia Quế trực tiếp lãnh đạo. Ở thời điểm này, địa bàn hoạt động chủ yếu của cuộc khởi nghĩa chỉ nằm ở vùng Bãi Sậy bao gồm địa phận của các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu, Yên Mỹ thuộc tỉnh Hưng Yên. Tuy nhiên, từ năm 1885 trở đi, vai trò lãnh đạo cuộc khởi nghĩa đã được thay đổi và thuộc về Nguyễn Thiện Thuật. Ông nắm giữ vai trò là thủ lĩnh cao nhất của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
2. Địa điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1982)
Trước khi chiếu Cần Vương ra đời
Sau khi chiếm Nam Kỳ, quân Pháp đã nhanh chóng tiến công ra Bắc và thực hiện chiếm đánh Bắc Kỳ của nước ta. Trước tình hình đó, nhà Nguyễn đã hạ lệnh cho các cánh quân chống Pháp hạ vũ khí, Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình và quyết tâm đánh Pháp. Vì vậy, vào tháng 8/1883, Pháp đã chiếm đóng Hải Dương, Nguyễn Thiện Thuật đã gấp gáp mộ quân, mưu đánh chiếm tỉnh lỵ nhưng việc không thành nên đã kéo quân lên phối hợp với Hoàng Tá Viêm chống Pháp ở Tây Sơn.
Đến cuối năm 1883, sau khi Hiệp ước Harmand được Ký, nhà Nguyễn đã ra lệnh bãi binh đợi chỉ dụ. Dù vậy, Nguyễn Thiện Thuật đã không nghe theo mà mang lại mang quân lên Tuyên Quang cùng với Nguyễn Quang Bích giữ thành. Tuy nhiên không lâu sau đó, khi các thành Hưng Hóa và Lạng Sơn thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật đã tháo chạy sang Long Châu (Trung Quốc) để tiếp tục chuẩn bị lực lượng chiến đấu.
3. Hưởng ứng chiếu Cần Vương
Sau khi cuộc tấn công ở kinh thành Huế thất bại, Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi chạy trốn ra Tân Sở (Quảng Trị). Đến tháng 7 năm 1885, vua Hàm Nghi đã hạ chiếu Cần Vương. Đúng lúc này, Nguyễn Thiện Thuật trở về nước và tiến hành thành lập căn cứ địa Bãi Sậy do Đổng Quế trực tiếp trao lại. Cũng vào thời điểm này, vua Hàm Nghi đã phong cho ông làm Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần, gia trấn Trung tướng quân.
Vào tháng 9/1885 nghĩa quân đã vượt sông Hồng sang đánh phá địa phận các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên và Ứng hòa. Cho đến đêm 28 rạng ngày 29/9, quân Bãi Sậy đã tiến hành tấn công thành Hải Dương buộc quân Pháp phải điều hai pháo hạm tiễu trên sông Thái Bình nhằm bảo vệ căn cứ của mình.
Ngoài hoạt động chống càn quét, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy còn thường xuyên tổ chức các trận tập kích hiệu quả. Đến ngày 26/6/1886, nghĩa quân đã tấn công một đồn Pháp ở Cầu Đuống. Sau đó không lâu, tháng 9/1885, Nguyễn Thiện Thuật đã trực tiếp chỉ huy nghĩa quân tiến công để chiếm lại thành Hải Dương và tiến ra đóng giữ địa phận các làng xung quanh. Tuy nhiên, do lực lượng không đủ mạnh nên sau đó nghĩa quân đã nhanh chóng phải rút lui.
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vẫn được tiếp tục diễn ra cho đến tháng 6 năm 1889, thống sứ Bắc Kỳ đã ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh do Hoàng Cao Khải đang đương nhiệm chức Khâm sai Bắc Kỳ làm Tư lệnh trường, Muselier làm Cảnh sát sứ. Ở trận Đông Nhu, quân Bãi Sậy đã giết viên quản khố xanh Leglee và sau đó ngày 24/7 đã giết chết tên viên quản khố xanh Escot. Sau nhiều lần chống lại quân ta không thành công, quân Pháp phải tặng cho Nguyễn Thiện Thuật danh hiệu đó là “Vua Bãi Sậy”.
4. Khởi nghĩa Bãi Sậy bước vào giai đoạn kết thúc
Sau khi vua Hàm Nghi bị bắt vào năm 1888 và bị lưu đày sang châu Phi, phong trào Cần Vương bắt đầu biểu hiện suy yếu. Cùng với đó, sức mạnh của quân khởi nghĩa Bãi Sậy cũng dần bị suy yếu và quân Pháp ngày càng thiết lập nhiều đồn quanh căn cứ Bãi Sậy. Các tướng như Lãnh Điều, lãnh Lộ, Lãnh Ngữ, Đề Tính và nhiều tướng khác đã tử trận còn số còn lại đều bị truy kích. Nhân lúc này, Hoàng Cao Khải đã nhân danh vua Đồng Khánh nhằm chiêu dụ Nguyễn Thiện Thuật ra hàng và hứa sẽ khôi phục chức tước như cũ.
Bên cạnh đó, tháng 7 – 1889, quân Pháp đã tập trung binh lực nhằm bao vây và tiến hành tấn công quân ta tại Trại Sơn là đại bản doanh của đội quân Hai Sông. Tại thời điểm này, quân Pháp đã chia thành 4 đạo và vây chặt căn cứ trung tâm và dùng tàu bè để đi tuần đêm ngày ở tất cả các khu vực quanh ngả sông căn cứ. Với tình hình này, nghĩa quân trong khởi nghĩa Bãi Sậy đã phải nhanh chóng rút chạy qua nơi khác.
Trước sợ tháo chạy này của quân ta, quân Pháp đã cố gắng thắt chặt vòng vây và tăng cường hoạt động truy quét, khủng bố nhân dân ta nằm trong vùng nhằm cắt đứt mọi liên hệ giữa nhân dân và nghĩa quân ta. Rơi vào thế cùng lực kiệt, lương thực và đạn dược đều hết, ngày 12/8/1889, Đốc Tít đã phải ra đầu hàng quân Pháp.
Sau những tổn thất nặng nề trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, phong trào chống Pháp ở Hưng Yên, Hải Dương đã bị giảm sút một cách rõ rệt. Tuy nhiên, nó vẫn chưa kết thúc mà vẫn còn duy trì thêm một thời gian khá dài nữa. Đến năm 1892, khi Đốc Vinh – thủ lĩnh cuối cùng của phong trào Bãi Sậy bị giết, lực lượng nghĩa quân Bãi Sậy mới chính thức tan rã.
5. Nguyên nhân của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
Năm 1885, khi quan quân triều đình nổi dậy tấn công Pháp ở kinh đô Huế nhưng thất bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phải chạỵ ra Tân Sở thuộc tỉnh Quảng Trị. Tại đây, Tôn Thất Thuyết mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vương để kêu gọi người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua.
Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.
6. Diễn biến của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy
Địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Bãi Sậy thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) và Kinh Môn (thuộc Hải Dương). Sau đó, cuộc khởi nghĩa đã phát triển ra các tỉnh xung quanh như Bắc Ninh. Thái Bình, Nam Định… Lãnh đạo khởi nghĩa là Nguyễn Thiện Thuật.
Trong những năm 1885 – 1889, nhiều trận đánh ác liệt xảy ra giữa nghĩa quân và quân Pháp.
Sau những trận chống càn, lực lượng nghĩa quân suy giảm và bị bao vây.
Đến cuối năm 1889, nghĩa quân dần dần tan rã.
7. Ý nghĩa của khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
Bên cạnh nguyên nhân, diễn biến của khởi nghĩa Bãi Sậy thì ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Bãi Sậy cũng là câu hỏi được nhiều người quan tâm. Dưới đây là những ý nghĩa mà cuộc khởi nghĩa này mang lại như:
Cuộc khởi nghĩa này đã kế tục truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha, cổ vũ nhân dân ta tiếp tục đấu tranh.
Bên cạnh đó, khởi nghĩa Bãi Sậy cũng đã để lại nhiều lại bài học bổ ích, nhất là phương thức hoạt động và hình thức tác chiến du kích ở một đồng bằng đất hẹp người đông.
8. Tính chất cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là gì?
Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy là cuộc khởi nghĩa dưới ngọn cờ phong kiến
Khởi nghĩa Bãi Sậy áp dụng chiến thuật du kích, dựa vào sự ủng hộ của dân chúng, lúc ẩn lúc hiện, đánh úp đồn trại Pháp trên đường Hà Nội – Hưng Yên – Hải Dương, hay dựa vào địa thế sình lầy, lau sậy um tùm dễ tiến thoái của căn cứ để chống Pháp…
Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883 – 1892) được xem là một trong những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất của nhân dân đồng bằng Bắc Kỳ ở cuối thế kỷ XIX. Mặc dù không giành được thắng lợi nhưng cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm đặc biệt là về phương thức hoạt động, hình thức tác chiến cho cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn sau.
Xem thêm