Viết bài văn phân tích bài thơ Xuân về lớp 10

1. Mở bài: - Dẫn dắt, giới thiệu tác giả Nguyễn Bính và bài thơ "Xuân về". - Nêu cảm nhận chung nhất về tác phẩm.


Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Dẫn dắt, giới thiệu tác giả Nguyễn Bính và bài thơ "Xuân về".

- Nêu cảm nhận chung nhất về tác phẩm.

2. Thân bài

a, Chủ đề và mạch cảm xúc của bài thơ:

- Chủ đề: Bức tranh thiên nhiên và con người ở làng quê Việt Nam khi xuân về.

- Mạch cảm xúc: Cảm hứng trữ tình, say đắm với vẻ đẹp mà mùa xuân mang lại.

b, Phân tích tác phẩm:

- Bức tranh thiên nhiên mùa xuân:

+ Gió xuân về: làm ửng hồng gò má của "gái chưa chồng"; mang cái lạnh se se, cứ đến rồi lại đi.

+Những cơn mưa mùa xuân qua đi, trời quang mây tạnh.

+ Ánh nắng dịu nhẹ, ấm áp bắt đầu xuất hiện.

+ Lộc non đâm chồi, phủ lên lớp "tráng bạc" sau cơn mưa xuân.

+ Đồng lúa vào "thì con gái" xanh mướt, "mượt như nhung".

+ Các vườn cây tràn ngập màu sắc và mùi hương của các loài hoa, thu hút bướm ong về tụ họp.

- Hình ảnh con người:

+ Đôi má đỏ hây hây của "gái chưa chồng".

+ Cô hàng xóm với "đôi mắt trong" ngước nhìn bầu trời.

+ Con trẻ nô đùa, "chạy xun xoe" dưới ánh nắng mùa xuân.

+ Sự thong thả của người nông dân được "nghỉ việc đồng" sau những tháng này làm lụng vất vả.

+ Hình ảnh nô nức khi đi trẩy hội chùa, từ những cô gái trẻ với "yếm đỏ, khăn thâm" tới những cụ già "tóc bạc".

c, Đánh giá:

- Nội dung:

+ Cảnh ngày xuân nơi làng quê giản dị, mộc mạc.

+ Bức tranh thiếu nữ duyên dáng đi hội chùa.

- Nghệ thuật:

+ Hình ảnh thơ chân thực, gần gũi.

+ Ngôn ngữ trong sáng, giản dị, được sử dụng khéo léo.

+ Các biện pháp tu từ.

+ Nhịp thơ chậm rãi, cách ngắt nghỉ nhịp nhàng.

→ Nét đẹp dân dã đặc trưng của thơ Nguyễn Bính.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.

- Khẳng định lại ý nghĩa của bài thơ đối với bản thân.


Mẫu 1

Mùa xuân trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong các sáng tác của các nhà thơ, nhà văn. Mỗi trang viết về mùa xuân là một lời ca ngợi sức sống của đất trời, của con người mùa xuân. Với Nguyễn Bính, mùa xuân cũng vô cùng đặc biệt, cứ thế thật tự nhiên hòa cùng bao vần thơ của Xuân về.

Mở đầu bài thơ là những vần thơ thật nhẹ nhàng:

“Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.”

“Xuân về” đầu tiên mà Nguyễn Bính “thấy” chỉ là cảm nhận qua tác nhân khác, qua hình ảnh khác. Tác nhân ấy là “gió đông”, có thể không còn làm da lạnh buốt khiến nhà thơ cảm nhận là xuân đang về và tác nhân ấy chính là “cổ hàng xóm” mới lớn có “màu má – đôi mắt trong” biểu hiện sức sống dạt dào, thanh tân của những ngày đầu năm mới. Xuân gần là ở đó, là ở gió, là cô láng giềng đang lơ đãng nhìn trời dưới mái hiên…

Rồi xa hơn một chút:

‘Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.”

Khung cảnh thật tươi sáng và trong lành. Trời không mưa. “Gió về từng trận gió hay đi”, câu thơ mang lại cho người đọc không khí mát mẻ, nhẹ nhàng mà không là gió lốc, gió xoáy. “Lá nõn nhành non ai tráng bạc” là một câu thơ đẹp về hình ảnh, hay về nội dung. Đẹp về hình ảnh “lá nõn nhành non” và nghệ thuật so sánh “ai tráng bạc”; hay là ở chỗ nó làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân, làm cái nền rất phù hợp với niềm vui của “đàn con trẻ”. Bức tranh xuân về mở rộng thêm:

“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Không gian bức tranh Xuân về mở rộng thành một tổng thể. Từ mái hiên hàng xóm, lá nõn nhành non rộng ra khu vườn với màu sắc của hoa bưởi hoa cam ngọt ngào hương thơm và đầy ong bướm lượn. Tất cả nằm trong khung nền của cánh đồng làng “lúa thì con gái mượt như nhung”. Lúa đang lớn, đang vào lúc sắp trổ bông lá xanh mềm mại trải khắp. Lúc này, nhà nông nhàn nhã nghĩ tới việc “tháng giêng ăn tết ở nhà”

“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,… là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà.

Ba khổ thơ đầu, nhà thơ miêu tả xuân đang về với con người, còn ở khổ thơ này thì xuân đã về, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân ấy là “trẩy hội chùa”. Cảnh trong khổ thơ là cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đi trẩy hội chùa phần lớn là người già và các cô gái. Quanh năm chân lấm tay bùn, quần áo bạc màu mưa gió. Nhân xuân về, các cô diện “yếm đỏ khăn thâm” dắt bà thong thả đến chùa cầu phước.

Có thể thấy rằng, Xuân về là một thi phẩm xuất sắc trong chùm thơ Nguyễn Bính, không chỉ bộc lộ rõ cái tài trong phong cách làm thơ của ông mà con biểu thị con người ấy theo những nét riêng trong suốt cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật.


Mẫu 2

Nhắc đến mùa xuân là nhắc đến sự sinh sôi, "thay da đổi thịt" của vạn vật. Đó là thời khắc mở đầu cho một năm, đánh dấu biết bao điều mới mẻ, hạnh phúc. Không lạ khi mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, văn chương của nhiều thế hệ. Trong đó, "Xuân về" của Nguyễn Bính cũng được đánh giá là một tác phẩm tiêu biểu và mang nhiều giá trị. Bằng những hình ảnh thơ gần gũi, tác giả đã đem đến cho người đọc một mùa xuân đẹp, bình dị ở chốn làng quê thân thuộc.

Trước hết, thiên nhiên trong tác phẩm hiện lên vô cùng đẹp đẽ và tràn trề sức sống. Gió xuân xuất hiện mang theo chút ấm áp nhẹ nhàng: "Đã thấy xuân về với gió đông". Cơn gió cứ "về từng trận" rồi lại "bay đi", tô hồng gò má người thiếu nữ. Chúng mang đi cả những cơn mưa phùn lạnh giá, trả lại bầu trời quang đãng cùng sự lấp ló của tia nắng Mặt Trời. Cả khung cảnh dường như bừng sáng thông qua từ "nắng mới hoe". Nắng mới khiến lớp nước còn đọng lại trên cỏ lá trở nên lấp lánh như được "ai tráng bạc". Đây quả là một biện pháp so sánh vô cùng độc đáo mà tác giả đã sử dụng. Lộc non đua nhau đâm chồi, mang thêm sức sống cho khung cảnh thiên nhiên rộng lớn.

Bên cạnh đó, hình ảnh con người cũng được nhà thơ đưa vào một cách vô cùng tài tình. Những cô gái xuất hiện ngay từ khổ thơ đầu tiên với cơn gió xuân thoang thoảng. Đó là cô "gái chưa chồng" má đỏ hây hây, là "cô hàng xóm" có "đôi mắt trong" đang ngước nhìn bầu trời. Chỉ đơn giản như vậy thôi nhưng đó lại là điểm nhấn, là nét chấm phá cho khung cảnh mùa xuân thơ mộng. Tiếp theo, ta được thấy hình ảnh của "Từng đàn con trẻ chạy xun xoe". Đây là chi tiết thể hiện niềm vui, sự háo hức của những đứa trẻ khi Tết đến xuân về hay cũng chính là cảm xúc, tâm tư của tác giả gửi vào con chữ. Người nông dân bây giờ có thể tạm gác lại tháng ngày làm lụng vất vả, "thong thả" mà nghỉ ngơi, tận hưởng tiết trời trong lành của đầu xuân năm mới. Họ xúng xính áo quần đi trẩy hội. Tất cả đã hợp nhất lại, tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh làng quê Việt Nam dưới trời xuân vừa đẹp đẽ, náo nhiệt, vừa dân dã, hồn hậu.

Với "Xuân về", nhà thơ Nguyễn Bính đã thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Với hình ảnh thơ giản dị, gần gũi cùng ngôn ngữ thơ trong sáng, mộc mạc, tác giả đã khắc họa vô cùng rõ nét cảnh ngày xuân nơi làng quê hết sức dung dị mà không kém phần nên thơ, trữ tình. Điều đó giúp người đọc cảm nhận rõ nét hơn không khí yên bình của chốn làng mạc. 

Với danh hiệu "nhà thơ của làng quê Việt Nam", ông đã rất thành công mang đến cho độc giả bức tranh chân thật và đẹp đẽ, thơ mộng nhất bằng ngòi bút tài hoa, dân dã của mình. "Xuân về", Nguyễn Bính đã đem đến cho độc giả mùa xuân thật dân dã, gần gũi ở làng quê Việt Nam thân thuộc.


Mẫu 3

Nguyễn Bính – là một nhà thơ lớn của thơ ca hiện đại Việt Nam.  Năm 1937, ông được giải thưởng Tự lực Văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Từ đó, người đọc quý mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo được phong vị thơ đặc biệt cho mình: phong vị lục bát ca dao. Bài thơ Xuân về lại mang phong vị khác cho bạn đọc: phong vị thơ mới thất ngôn.

Viết về mùa xuân, mỗi người một nét nhìn, một phong vị văn thơ khác nhau nhưng hầu như ai cũng ca ngợi sức sống của đất trời, của con người mùa xuân. Với Nguyễn Bính mùa xuân bao trùm lên tất cả. Trong bốn khổ thơ bảy chữ tác giả là người quan sát và miêu tả bằng những câu thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Nét xuân đầu tiên mà nhà thơ cảm nhận từ một vị trí gần với nhà thơ nhất:

“Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.”

“Xuân về" đầu tiên mà Nguyễn Bính “thấy” chỉ là cảm nhận qua tác nhân khác, qua hình ảnh khác. Tác nhân ấy là “gió đông”, có thể không còn làm da lạnh buốt khiến nhà thơ cảm nhận là xuân đang về và tác nhân ấy chính là “cổ hàng xóm" mới lớn có “màu má - đôi mắt trong" biểu hiện sức sống dạt dào, thanh tân của những ngày đầu năm mới. Xuân gần là ở đó, là ở gió, là cô láng giềng đang lơ đãng nhìn trời dưới mái hiên...

“Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.”

Khung cảnh thật tươi sáng và trong lành. Trời không mưa. “Gió về từng trận gió hay đi", câu thơ mang lại cho người đọc không khí mát mẻ, nhẹ nhàng mà không là gió lốc, gió xoáy. “Lá nõn nhành non ai tráng bạc" là một câu thơ đẹp về hình ảnh, hay về nội dung. Đẹp về hình ảnh “lá nõn nhành non” và nghệ thuật so sánh “ai tráng bạc”; hay là ở chỗ nó làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân, làm cái nền rất phù hợp với niềm vui của “đàn con trẻ”. Bức tranh xuân về mở rộng thêm:

“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Không gian bức tranh Xuân về mở rộng thành một tổng thể. Từ mái hiên hàng xóm, lá nõn nhành non rộng ra khu vườn với màu sắc của hoa bưởi hoa cam ngọt ngào hương thơm và đầy ong bướm lượn. Tất cả nằm trong khung nền của cánh đồng làng “lúa thì con gái mượt như nhung". Lúa đang lớn, đang vào lúc sắp trổ bông lá xanh mềm mại trải khắp. Lúc này, nhà nông nhàn nhã nghĩ tới việc “tháng giêng ăn tết ở nhà"

Phần cuối cùng của bức tranh tổng thể Xuân về là hình ảnh

“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,... là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà. Ba khổ thơ đầu, nhà thơ miêu tả xuân đang về với con người, còn ở khổ thơ này thì xuân đã về, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân ấy là “trẩy hội chùa”. Cảnh trong khổ thơ là cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. 

Như trên đã viết, Xuân về mang một phong vị khác trong thơ ca của Nguyễn Bính. Cảnh Xuân thì vẫn là cảnh đầy sức sống với cảnh sắc tươi sáng, trong lành của làng quê Việt Nam nhưng những dòng thơ về cảnh sắc ấy lại là những dòng thơ mới đang trong thời khuấy động thành phong trào. 


Mẫu 1

Thi sĩ Nguyễn Bính xuất hiện trong phong trào "Thơ mới" trước năm 1945. Phong cảnh đồng quê, hình ảnh cô thôn nữ, bến đò ngang, phiên chợ Tết... được Nguyễn Bính nói lên một cách bình dị, thân mật đáng yêu. "Tương tư", "Chợ Tết", "Mưa xuân", "Xuân về",... là những bài thơ hay của ông được nhiều người yêu thích.

Bài thơ "Xuân về" là một bức tranh xuân có bốn cảnh xinh xắn, thân mật về đồng quê. làng quê Việt Nam hơn 60 năm về trước. Con người và cảnh sắc nông thôn đã được thi vị hóa qua một hồn thơ lãng mạn tài hoa.

Cảnh xuân thứ nhất nói về cô thôn nữ khi gió đông (gió xuân) thổi về. Gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má "gái chưa chồng", tuổi xuân mơn mởn. Cô láng giềng, cô hàng xóm của nhà thơ bâng khuâng nhìn trời với “đôi mắt trong" như đang ước hẹn, đợi chờ ai... Bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ được chấm phá qua hai hình ảnh "màu má gái chưa chồng" và "đôi mắt trong" của cô hàng xóm đang "ngước mắt" nhìn trời xuân:

"Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong "

Cảnh xuân thứ hai vừa đẹp, vừa sống động, hồn nhiên và tươi xinh. Gió xuân thổi về từng trận rồi "gió bay đi", gợi lên sự phơi phới. Sau những tháng ngày mưa xuân, mưa bụi trắng trời, nay mưa đã tạnh, bầu trời rất đẹp, một không gian ấm áp: "giời quang, nắng mới hoe". Nắng mới là nắng đầu xuân: "nắng mới hoe" là nắng hồng nhạt, cỏ cây đâm chồi nảy lộc:

"Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?"

"Lá nõn" là những mầm lá, những lá non màu xanh mượt, "nhành non" là những cành tơ mới nảy lộc có nhiều lá nõn màu xanh như ngọc. Nhà thơ sung sướng ngạc nhiên nhìn “lá nõn, nhành non" rồi thốt lên câu hỏi "ai tráng bạc".

Lá xuân mỡ màng, non tơ sáng ngời lên lấp lánh. Các chữ: "nõn", "non", 'bạc?", đã gợi lên sắc xuân và sức xuân kì diệu. Thi sĩ Xuân Diệu cũng đã nói hoa, lá, cành mùa xuân, cũng nói đến "cành tơ" đầy gợi cảm:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất... "

(Vội vàng)

Cảnh xuân càng trở nên rộn ràng, vui tươi và hồn nhiên khi xuất hiện "Từng đàn con trẻ chạy xum xuê". Các em nô đùa, các em đón nắng mới, các em theo bà, theo chị đi trẩy hội mùa xuân. Cảnh xuân càng trở nên ý vị đậm đà.

Nét xuân đẹp thứ ba trong bức tranh xuân của Nguyễn Bính mở ra một không gian nghệ thuật rộng lớn gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày "nghỉ việc đồng", ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát "lúa con gái mượt như nhung". Một so sánh rất hay, rất gợi cảm làm hiện lên những cánh đồng quê lúa xanh thẫm, biển lúa êm đềm "mượt như nhung". Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi "ngào ngạt hương bay". Mùi thơm nồng nàn, quấn quít "bướm vẽ vòng". Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ:

"Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng. "

Chữ "đầy", chữ "ngào ngạt" là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân.

Một nét đẹp nữa trong bức tranh "Xuân về" là cảnh đi trẩy hội. "Một đôi cô" duyên dáng, tươi xinh trong bộ đồ dân tộc: "yếm đỏ khăn thâm" đi trẩy hội chùa. Các cụ già, bà già "tóc bạc" lưng còng, tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lần tràng hạt, miệng lầm rầm tụng nam mô. Có cái phơi phới, say mê của cô gái quê. Có cái phúc hậu, thánh thiện của tuổi già. Cảnh trẩy hội xuân vừa tưng bừng náo nhiệt, vừa dân dã hồn hậu đáng yêu. Ta cảm thấy như mình đang được sống lại lễ hội mùa xuân của làng quê hơn trăm năm về trước:

"Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô".

"Xuân về" là một bài thơ xuân đẹp, cho ta nhiều ấn tượng và yêu thích. Những nét vẽ về "lá nõn, nhành non...", về lúa con gái, "mượt như nhung", về hoa bưởi hoa cam rụng đầy vườn "ngào ngạt hương bay", với "bướm vẽ vòng", tất cả đã gợi lên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy hương sắc, rất mặn mà, thân thuộc. Bức tranh xuân ấy còn có hình ảnh thiếu nữ với má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng, với "yếm đỏ khăn thâm"-, còn có bà già đi hội, chống gậy trúc, lần tràng hạt, miệng nam mô. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc đậm đà, đáng yêu. Nguyễn Bính đã gợi lên cái hồn quê nơi thôn quê, đã để thương để nhớ trong lòng người bấy nay.

Tình quê, hồn quê là nét đẹp trong "Xuân về" của Nguyễn Bính. Thơ trong sáng, dung dị vơi đầy một tình xuân đồng quê đầm ấm và rung động, thiết tha. Thơ Nguyễn Bính dịu dàng, êm đẹp như ca dao, dân ca.


Mẫu 2

Nguyễn Bính là một trong những tác gia nổi tiếng của nền  thi ca Việt Nam hiện đại. Ông sáng tác ở nhiều thể loại, viết rất đều và luôn dốc lòng cho sự nghiệp thi ca của nước nhà. “Xuân về” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Bính, tác phẩm được viết năm 1937, in trong tuyển tập thơ Nguyễn Bính:

      Thi sĩ Nguyễn Bính được giới yêu thơ ưu ái gọi là Thi Sĩ Chân Quê. Bởi trong thơ ông, phong cảnh đồng quê, bến đò ngang, phiên chợ Tết hiện lên một cách bình dị, mộc mạc, thân mật và thật đáng yêu. Bài thơ "Xuân về" là một bức tranh mùa xuân sống động, xinh xắn, thân mật về đồng quê Bắc Bộ hơn 60 năm về trước.

       Bước vô thưởng thức bức tranh quê của người thi sĩ ta gặp ngay:

"Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong"

Gió xuân đã về trên những bờ cây ngọn cỏ, mang theo làn hơi ấm làm hồng lên đôi má của cô gái "chưa chồng”. Ấy chính là cô hàng xóm đang bâng khuâng nhìn trời “ngước mắt” nhìn trời xuân bên hiên nhà. Với “đôi mắt trong" dường như nàng đang thầm ước hẹn, đợi chờ ai...Bức tranh ngày xuân tươi tắn, trẻ trung, tình tứ được nhà thơ chấm phá một cách tinh tế qua hai hình ảnh "màu má gái chưa chồng" và "đôi mắt trong" của cô gái nhà bên đang thưởng thức bầu trời ngày xuân.

Tiếp đến nhà thơ cho chúng ta chiêm ngưỡng một khung cảnh sống động biết bao:

“Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.”

Gió xuân thổi từng cơn rồi gió lại “bay đi", gợi cho độc giả thấy sự phơi phới, tươi mát. Sau những cơn mưa xuân, thì nay trời đã tạnh, một bầu trời thật đẹp, nắng xuân thật ấm áp "giời quang, nắng mới hoe". Những mầm “lá nõn” xanh mượt vừa nhú, những “nhành non” mới nảy lộc còn chưa kịp cứng cáp. Chàng thi sĩ ngạc nhiên sung sướng nhìn “lá nõn, nhành non" rồi thốt lên hỏi "Ai tráng bạc?".

“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Xuân về cũng là lúc những bác nông dân sẽ tạm gác lại mọi công việc đồng áng để đón xuân, vui tết. Thời điểm này cũng là lúc  “lúa thì con gái mượt như nhung” những cây lúa với màu xanh mát dịu đã làm nao lòng biết bao người con xa quê. Không chỉ có lúa, mà còn có “đầy vườn hoa bưởi, hoa cam” tuy là đã “rụng” nhưng vẫn “ngào ngạt hương bay”.

Nét xuân đẹp thứ ba trong bức tranh xuân của Nguyễn Bính mở ra một không gian nghệ thuật rộng lớn gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày "nghỉ việc đồng", ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát "lúa con gái mượt như nhung". Một so sánh rất hay, rất gợi cảm làm hiện lên những cánh đồng quê lúa xanh thẫm, biển lúa êm đềm "mượt như nhung". Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi "ngào ngạt hương bay". Mùi thơm nồng nàn, quấn quít "bướm vẽ vòng". Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ:

"Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng"

Chữ "đầy", chữ "ngào ngạt" là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân.

“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,…là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà.

Xuân về tết đến, cảnh xuân rộn ràng vui tươi hơn bao giờ hết. Trên khắp các ngả đường các cô các chị sửa soạn thật đẹp để tham gia trẩy hội hay đi chùa cầu may. “Yếm đỏ”, “khăn thâm” đều là những trang phục truyền thống, quen thuộc của các cô thôn nữ những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ 20. Các cụ già tóc bạc phơ, vừa chống cây gậy trúc” vừa lần tràng hạt, miệng nam mô”. Quả thật là một hình ảnh rất thi vị.   

Bài thơ “Xuân về” mang một phong vị mới lạ trong thơ ca của thi sĩ Nguyễn Bính. Với bức tranh ngày xuân tràn đầy sức sống, cảnh sắc trong lành, tươi tắn của làng quê Việt Nam. Dù thời gian có chảy trôi, nhưng tôi tin rằng bài thơ “Xuân Về”  của nhà thơ Nguyễn Bính đã vẫn và sẽ mãi sống cùng năm tháng, bởi sự trong sáng, sống động và chân thật của ngôn từ, cách diễn đạt thân thiết, gần gũi với mọi thế hệ người Việt Nam.   


Mẫu 3

Như một con chim thoát ra khỏi sự nuôi nhốt, họ hoá thân theo bản năng tự do thể hiện, viết, cảm những gì mình thích nhưng luôn phù hợp với nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của con người. Nguyễn Bính là một nhà thơ đi ra từ phong trào thơ mới, những sáng tác của ông dù theo khuynh hướng của phong trào này nhưng vẫn có những nét riêng, cụ thể là nét chân quê mộc mạc. Một thi phẩm như Xuân về là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét cá tính của ông.

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người”

Nguyễn Bính lựa chọn cho mình đi theo một con đường riêng, cũng thơ tình đấy, đắm say và da diết đấy nhưng ông trở về với cái dân dã thôn quê chứ không đi theo những kiểu cải cách phương Tây, đó là một trong những điểm sáng giúp thơ Nguyễn Bính sống mãi. Bài thơ Xuân về là một bài thơ thấm đẫm tìn cảm của ông đối với quê hương, miêu tả chi tiết những cảnh vật đổi thay, con người ở miền quê Nam Định khi mùa xuân trở về.

“Đã thấy xuân về với gió đông,

Với trên màu má gái chưa chồng.

Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.”

Xuân theo cơn gió đông về trên miền quê êm đềm, một mùi hương mởn mơn của những loại thảo mộc vừa chớm nụ hoa chào đón không khí lành lạnh tê tái ấy. Trên đôi má người thiếu nữ cũng đỏ ưng ửng hồng hào, đôi mắt trong vây đầy tâm tư nghĩ về một điều gì mới mẻ ấy. Mùa xuân được Nguyễn Bính cảm nhận thông qua những sự vật và con người xung quanh mình, cụ thể là cô gái hàng xóm. Những nét ngây thơ của cô gái ấy tượng trưng cho sức sống tươi trẻ mà mùa xuân mang lại, căng tràn mùi vị, tựa như đang ở sát bên mình. Cái nét miêu tả gần gũi ấy như khiến mùa xuân càng thêm nôn nao trong ngày trở về, phải bung xõa hết mình để làm cho cái không khí lúc này hết mực tươi vui và náo nức. Cách miêu tả sự việc thông qua một vật thể nào đó cũng có nét tương đồng trong tác phẩm Chiều Xuân của Anh Thơ :

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Sự vật thiên nhiên như lặng tờ nao nao đón xuân về trên từng nhành cây, ngọn cỏ. Nguyễn Bính đã thật tài tình chỉ với vài ba câu thơ mà đã đặt bút làm nên những nét vẽ cơ bản trong bức tranh ngập tràn sắc xuân. Cô gái mới lớn đầy sự hồn nhiên đang ngóng xuân về, trên đôi má, đôi mắt, đâu đâu cũng là sự tươi trẻ, như là sự hiện diện của mùa xuân vậy.

Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bắt đầu đi sâu hơn, đã từng bước cảm nhận được mùa xuân một cách rõ nét nhất, xuân đã về len lỏi khắp các ngõ ngách, gió đượm xuân thổi hồn bay xa bao trùm lên toàn bộ miền quê yên bình. Rồi xa hơn một chút:

“Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,

Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe

Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?

Gió về từng trận , gió bay đi.”

Tạm biệt những cơn mưa lạnh lẽo và những ngọn gió bấc vô tình của mùa đông, nay đã nhường chỗ cho sắc xuân trở về. Trời quang hơn, trong xanh và cao, những tia nắng nhẹ nhè đâm xuyên xuống mặt đất một cách dịu dàng, sưởi ấm sự vật, là lời mời gọi hoa lá cỏ cây thức dậy sau những chuỗi phải phải ẩn mình dưới cái lạnh của mùa đông. Cây cối đua nhau nở rộ, những chồi xanh nhú lên đua nhau đón nắng mới, cái nắng mà ai ai cũng mơ ước tắm mình dưới nó một lần. Lá xanh như được tráng qua một lớp bạc, óng ánh, tươi trẻ, tự như cái sắc xuân mơn mởn đang về vậy, làm phong phú thêm cái nét tươi trẻ của ngày xuân.

Những đứa trẻ hàng xóm nhôn nhao đổ ra đường, hít một ngụm khí trời thanh tao, mát rượi, đùa giỡn trên con đường làng đất đỏ, tất cả hiện lên hoà vào nhau như một bức tranh êm đềm ngày xuân trên miền quê Nam Định, khiến cho bất cứ một người nào đọc vào cũng sẽ ngay lập tức quay về cái ngày còn bé của mình, cảm nhận từng chút kỉ niệm đã qua, bồi hồi, xao xuyến. Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Bính vô cùng gần gũi, không cách điệu mà theo xu hướng nhưng lại có những nét độc đáo riêng biệt.

“Đêm xuân một giấc mơ màng

Bốn bề xuân tỏa một nàng ở trong

Chiều xuân dễ khiến … ngại ngùng

Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?”

Xuân về, cái không khí ấy khiến ai mà cầm lòng nổi. Hơn thế khi tắm mình trong từng câu thơ của Nguyễn Bính, xuân không còn ở trên giấy mà như hiện hữu trước mặt, miêu tả mà như tái hiện, sắc xuân nồng nàn đượm trên ánh mắt hồn nhiên của độc giả.

Đã miêu tả con người, bức tranh xuân nay trở thành góc nhìn cao hơn, xa hơn, trở thành một tổng thể nhất định:

“Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,

Lúa thì con gái mượt như nhung.

Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng

Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”

Từ cô em gái hàng xóm, từ những đứa trẻ nô đùa trên đường, nay tác giả nhìn nhận mùa xuân với góc nhìn cao hơn để thể hiện một cách rộng nhất cái bức tranh màu sắc ấy. Những người nông dân đã nghỉ việc ở ngoài đồng, chuẩn bị đón xuân về nồng đượm trên quê hương, những bông lúa thự mướt và non như những cô gái mới lớn, xanh rờn, tươi trẻ. Bông lúa tháng Giêng nằm phơi mình giữa đồng đón nắng mới, như một thiếu nữ e thẹn, ngại ngùng trước sự đổi thay của thiên nhiên.

“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,

Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra”

Tác giả Anh Thơ cũng nhận thấy điều đó trong tác phẩm của mình, nhưng Nguyễn Bính lại ví ngọn lúa như con người, có những xúc cảm và tình cảm như con người, đó là sự khác biệt của ông. Ngoài vườn hoa bưởi hoa cam đã rùng trải trắng cả một bóng cây, mùi hương cay cay lan toả theo những ngọn gió mới mà xoa xịu khứu giác của mọi người, tưởng tượng không khí lúc này thật bình dị biết bao. Gió nhẹ đưa hương, không khí trong lành man mast chạy trên làn da mặt, một màu xanh nõn bao phủ cảnh vật, ai trông thấy bức tranh ấy mà lại không nao nức trong lòng.

Ở khổ thơ cuối, nhà thơ đã đưa độc giả đến với những hoạt động đón xuân của con người một cách nhẹ nhàng và khơi gợi :

“Trên đường cát mịn, một đôi cô,

Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.

Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,

Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”

Cái cảnh trẩy hội chùa là một nét phong tục đặc trưng của người Việt, chính vì vậy Nguyễn Bính sau khi miêu tả thiên nhiên thì đã đưa nó vào thi phẩm của mình. Những cô em gái, bà cụ mặc những bộ đồ tươm tất, khoác yếm đỏ, nối đuôi nhau đi đến chùa trẩy hội đầu xuân. Cái không khí vui tươi hoà nhã ấy là sự quen thuộc của người việt, đọc đến những dòng thơ này ai mà không cảm được cái vui tươi ấy, trang thơ của Nguyễn Bính có sức mạnh lớn lao lay động lòng người và khơi gợi về những kỉ niệm.

Nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ Nguyễn Bính vô cùng đặc sắc và có sức mạnh gợi tả vô cùng to lớn. Miêu tả sự vật, cây cối, con người, con ong con bướm, tất cả là những hình ảnh thân thuộc đối với vùng quê, khi đi qua  thơ Nguyễn Bính  như được hoá hồn, trở nên thực và đi vào trong tâm trí người đọc. Cái tình mà Nguyễn Bính gửi vào đó đậm đà sự dân dã, ông viết nên những dòng thơ ấy bằng chính trái tim yêu quê hương đất nước, trong sáng và đáng yêu. Những dòng thơ trong sáng, dung dị vang lên một cách thuần khiết nhất, thấm đẫm trong từng câu chữ, đó là cái tài hoa của một người nghệ sĩ chân chính.

Hoài Thanh đã bình luận về giọng thơ ấy thế này : “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,…đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”, gói gọn trong hai từ “chân quê”, hay nói cách khác giọng thơ ấy “dường như nói bằng hàng nghìn giọng, mê đắm và thuyết phục, nó nâng cái mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời lên chỗ tồn tại muôn đời”. Xuân về là một thi phẩm xuất sắc trong chùm thơ Nguyễn Bính, không chỉ bộc lộ rõ cái tài trong phong cách làm thơ của ông mà con biểu thị con người ấy theo những nét riêng trong suốt cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật.

Bài giải tiếp theo