Viết bài văn nghị luận về vở kịch Romeo và Juliet lớp 10

1. Mở bài - Giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Uy-li-am Sếch-xpia. - Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch kinh điển về tình yêu, là kiệt tác văn học ra đời dựa trên mối thù hận có thực của hai dòng họ Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.


Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về cuộc đời và sự nghiệp của Uy-li-am Sếch-xpia.
- Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch kinh điển về tình yêu, là kiệt tác văn học ra đời dựa trên mối thù hận có thực của hai dòng họ Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.
- Tình yêu và thù hận trích trong lớp hai, hồi II của vở kịch là những lời tâm sự tận đáy lòng của đôi trai tài gái sắc, hai trái tim cùng hướng về thứ tình yêu đích thực, sẵn sàng từ bỏ, vượt qua những rào cản thù hận dòng họ để đến bên nhau.

2. Thân bài

a. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét:
- Là tình yêu trên nền thù hận, với Giu-li-ét sự thù hận của hai dòng họ được nhắc đến như một nỗi sợ, nỗi ám ảnh thường trực.
- Với Rô-mê-ô chàng luôn mang tâm thế sẵn sàng, vượt lên trên thù hận với thái độ quyết đoán, sẵn sàng từ bỏ cả tên họ, từ bỏ cả dòng tộc vì tình yêu với Giu-li-ét, nhưng chàng lại băn khoăn và e dè vì chưa xác định được tình yêu của Giu-li-ét.

b. Những lời muốn ngỏ của hai nhân vật thông qua màn độc thoại nội tâm:

* Rô-mê-ô với 6 lời thoại:
- Bối cảnh: Đêm khuya thanh vắng, tĩnh mịch có ánh trăng, có những vì tinh tú, phù hợp để giãi bày tâm sự.
- Rô-mê-ô có những lời tán dương đầy si mê cho Giu-li-ét ví nàng như "mặt trời"với nhiều ẩn ý:
+ Vẻ đẹp của người con gái trẻ trung, rực rỡ, vẻ đẹp ấy giống như ánh dương ấm áp sáng chói tâm hồn hồn chàng.
+ Vẻ đẹp của nàng tỏa ra thứ ánh sáng cạnh tranh với thiên nhiên, thậm chí lấn át của ánh trăng khiến cho nó trở nên nhợt nhạt xanh xao.
+ Xuất phát từ thần thoại La Mã về mặt trăng, mà bản thân Rô-mê-ô lại ao ước một tình yêu thực tế, tươi đẹp gần sát với trần thế => Giu-li-ét phải xứng đáng với hình tượng mặt trời ấm áp.
+ Giu-li-ét lại xuất lúc chàng rơi vào tuyệt vọng, chính tình yêu của nàng đã hồi sinh tâm hồn chàng.
→ Chính Giu-li-ét đã mang đến sức mạnh, củng cố nguồn sống, là sự hiện diện tuyệt đối cần thiết trong cuộc đời chàng.

- Ví mắt nàng như vì tinh tú.
→ Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, vẻ đẹp của con người đã được tôn vinh để sánh ngang với vẻ đẹp của vũ trụ, thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương mãnh liệt ở Rô-mê-ô.

* Giu-li-ét với 3 lời thoại:
- "Ôi chao", cảm xúc chất chứa dồn nén ở trong ấy, đó là tình cảm gói ghém dành cho mối tình đầu tiên của mình, nhưng cũng là tiếng thở dài lo lắng, là nỗi băn khoăn của nàng về tình yêu của Rô-mê-ô.
- Đề ra giải pháp là một trong hai người họ phải từ bỏ dòng họ, có thể thấy rằng tình yêu của Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô là vô cùng lớn lao, là lời mách bảo chân thành của trái tim.
- Dùng lý lẽ để bảo vệ, biện minh cho việc từ bỏ dòng họ vì tình yêu "Chỉ có tên họ...đổi lấy cả em đây!".
→ Dường như Giu-li-ét đã không còn là cô bé 14 tuổi nữa mà đã vụt trưởng thành, chín chắn.

c. Cuộc chạm mặt trực tiếp để bày tỏ tình cảm:

* Giu-li-ét:
- Luôn ám ảnh nỗi sợ hãi thường trực, nàng luôn gợi nhắc về mối thù của hai đại gia tộc mà hiện thân của nỗi lo lắng ấy chính là bức tường đá.
- Bức tường đá bảo vệ dòng họ khỏi sự đột nhập của những kẻ có ý đồ bất chính, là sự ngăn trở tình yêu, là rào cản, là mối thù sâu đậm của hai dòng họ, nó còn là biểu tượng cho nỗi lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của Rô-mê-ô.

* Rô-mê-ô:
- Suy nghĩ của Rô-mê-ô lại thoáng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, lập tức khẳng định chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ để xóa bỏ mối thù.
- Xóa tan mọi băn khoăn lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của chàng bằng cách khẳng định chắc chắn về tình yêu mãnh liệt dành cho nàng.
- Hình bóng bức tường trở thành đòn bẩy, là công thức chính minh cho tình yêu của Rô-mê-ô.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị nội dung tư tưởng của đoạn trích.


Mẫu 1

Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở kịch của nhà soạn kịch thiên tài Sếch-xpia trong thời đại Phục hưng. Đây là thời kỳ tiến bộ nhất mà nhân loại gọi là bước ngoặt của nhân loại. Chưa bao giờ tình yêu, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa nhân văn lên ngôi và được phản ánh mạnh mẽ trong thời kỳ này đến thế. Rô-mê-ô và Giu-li-ét cũng không nằm ngoài mạch cảm hứng sáng tác ấy. Vở kịch khá đồ sộ song có một số phân đoạn tiêu biểu như Thề nguyền và vĩnh biệt.

Vở kịch này nói về tình yêu thắm thiết, khăng khít của đôi bạn trẻ Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Nhưng trớ trêu thay họ lại sinh ra từ hai dòng họ có mối hiềm khích với nhau từ rất lâu. Thế nên tình yêu của họ bị cả dòng họ hết sức cấm cảm, chia lìa. Để bảo vệ tình yêu đôi bạn trẻ đã đi đến hành động quyết liệt tự tử, không thể bên nhau lúc còn sống thì trọn đời bên nhau ngay cả lúc chết. Chính cái chết của họ đã giúp cả hai dòng họ hoá giải mọi oán hờn. Qua đó tác phẩm đã tố cáo tội ác của chế độ phong kiến chà đạp lên hạnh phúc của con người, những định kiến cổ hủ giống như chiếc cùm gông khóa chặt ước mơ, khát vọng của con người. Đồng thời cũng ca ngợi tình yêu, ước mơ, dám thể hiện, dám đấu tranh của con người trước các thế lực phong kiến. Khẳng định giá trị của tình yêu đích thực sẽ giúp con người xóa bỏ mọi hận thù và xích lại gần nhau hơn.

Đoạn trích Thề nguyền và vĩnh biệt tập trung tái hiện cảnh đôi trai tài gái sắc gặp nhau sau đêm vũ hội. Trúng phải tiếng sét ái tình, họ đã tìm gặp nhau, trao cho nhau tình yêu, những lời thề nguyền hẹn ước đầy ân tình, rồi chia tay nhau trong nhớ thương. Mặc dù khi nghe danh xưng cả hai đều biết họ sẽ khó có thể đến được với nhau. Thế nhưng hai người vẫn yêu nhau một cách mãnh liệt, không thể chối bỏ được tình cảm của mình.

Trước mắt Romeo là một thiếu nữ xinh đẹp, ngọt ngào, chàng như đắm chìm vào trong vẻ đẹp đến u mê của nàng Giu-li-ét. Dưới con mắt của kẻ si tình nàng hiện lên giống như vầng mặt trời, làm lu mờ ánh sáng của mọi vị tinh tú khác. Đôi mắt nàng giống như hai ngôi sao đẹp nhất trên bầu trời, vẻ đẹp ấy khiến cho Romeo chết lặng và chàng cũng chẳng ngần ngại thổ lộ tình cảm của mình dành cho nàng.

Về phía Juliet nàng cũng có cảm mến với chàng trai này, trong tình yêu nàng cũng vô cùng chủ động, đáp lại tình cảm chân thành ấy. Không rụt rè, không e ngại, không giấu diếm, chủ nghĩa cá nhân, tự do trong tình yêu và hôn nhân đã được thể hiện qua hành động chủ động của đôi bạn trẻ. Dẫu biết rằng phía trước sẽ có rất nhiều chông gai, rào cản, mọi thứ sẽ không suôn sẻ nhưng đôi trẻ đã bỏ qua tất cả, chỉ trong giây phút này sống đúng với con tim của mình

Đôi trẻ thể hiện tình yêu trong một không gian đặc biệt: vắng vẻ, kín đáo nhằm trốn tránh ánh mắt dò xét theo dõi của hai bên gia đình. Giữa một khung cảnh éo le như thế đôi trẻ đã bày tỏ tình cảm, hứa hẹn những điều tốt đẹp ở tương lai phía trước. Vì tình yêu đôi trẻ sẵn sàng hoá giải mọi thù hận của hai dòng họ. Điều đó chứng tỏ sức mạnh của tình yêu có giá trị và ý nghĩa lớn như thế nào.

Đoạn trích thề nguyền và vĩnh biệt tập trung xây dựng các cuộc đối thoại mang tính kịch giữa hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Ngôn ngữ đã được dịch nên chúng tôi không bàn nhiều, chúng tôi chỉ quan tâm đến kết cấu, tình huống được xây dựng. Với một tình huống, bối cảnh độc đáo và một kết cấu khá chặt chẽ, đoạn trích xứng đáng được đánh giá là một trong những đoạn trích hay nhất của vở kịch này.


Mẫu 2

Khi nhắc đến U.Sếch-Xpia, không thể không kể đến tác phẩm kinh điển Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Đây là một tác phẩm văn học và điện ảnh mang đến tên tuổi và sự nghiệp nghệ thuật của ông. Câu chuyện chính xoay quanh mối tình đầy gian trá của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, bị cấm đoán, rối ren nhưng họ quyết định đến với nhau bằng tình yêu chân thành và mãnh liệt. Chỉ có cái chết mới giải quyết được mâu thuẫn giữa hai gia đình, mở ra một tương lai tươi sáng và khẳng định chủ nghĩa nhân văn sẽ chiến thắng mọi thứ.

Giu-li-ét là người con gái xinh đẹp, hiện ra như một nàng tiên lộng lẫy, quý phái qua lời độc thoại của Rô-mê-ô. Chàng tự trách sao mình mang theo một dòng họ và tên tuổi như thế, đó là kẻ thù, là oan gia không thể hòa giải được. Những câu độc thoại của họ từ đầu đến thứ bảy bộc bạch bản thân và mơ ước, tạo ra những hình ảnh đẹp, thơ mộng, kiều diễm như trong truyện cổ tích.

Tác giả muốn khắc họa hình ảnh nhân vật và tình yêu mãnh liệt, chẳng quan trọng đến cải vật chất hay địa vị xã hội. Mối tình nảy nở kỳ diệu và nên thơ dù đang tồn tại trong hoàn cảnh éo le và oan nghiệt. Mặc dù yêu nhau nhưng Giu-li-ét luôn lo lắng và quan ngại về mối tình này. Liệu họ có đến được với nhau không? Tình yêu của họ sẽ đi về đâu? Họ sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để bảo vệ tình yêu và kết thúc nó khi đang đẹp nhất, giải cứu mối tình và hóa giải mối thù truyền kiếp của hai gia đình.

Từ lời thoại 8 đến 16 là sự bộc bạch những tình cảm, tấm chân tình dành cho nhau, thỏa mãn nỗi nhớ nhung qua những gặp gỡ chói lọi. Dù thù hận của hai gia tộc quá lớn nhưng chỉ cần nhìn nhau một cách âu yếm, chàng sẵn sàng quên mọi rào cản, thậm chí tính mạng để được ở bên nhau.

Chuyện tình của họ chứng minh rằng tình yêu là bất diệt, vĩnh cửu, không có rào cản nào có thể ngăn cách hai trái tim đang hòa chung một nhịp đập, quyện vào nhau một cách mê say. Họ đã hy sinh tính mạng để bảo vệ tình yêu, giải cứu mối tình và hóa giải mối thù truyền kiếp. Cuối cùng, mặc cho cái chết, tình yêu của họ được ghi nhớ muôn đời, với tình yêu mãnh liệt hơn cả cái chết.

Tác phẩm 'Tình yêu và thù hận' của Sếch-Xpia không chỉ là câu chuyện tình yêu đẹp mắt của hai người con của hai gia đình khác nhau, mà còn là sự giải quyết tinh tế cho mối thù hận truyền kiếp. Một câu chuyện tình yêu đầy cảm xúc, đẹp đẽ và sâu sắc, khắc sâu vào tâm trí người đọc.


Mẫu 3

Trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chúng ta chứng kiến sự phô diễn của tài năng vĩ đại của William Shakespeare, một nhà viết kịch có tầm nhìn nhân đạo sâu sắc, khát khao giải phóng con người khỏi những giới hạn xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ là những bức tranh chân thực về xã hội thời đó, mà còn tạo ra những câu chuyện thấm đượm thông điệp phản ánh những quan niệm cổ hủ, chế độ phong kiến và những ràng buộc vô lý đối với con người. Tầm nhìn tiến bộ của ông đã tạo nên những tác phẩm thể hiện tình cảm rung động, lòng tốt, yêu thương và sự đồng cảm với nhân loại trong hoàn cảnh khó khăn.

“Rô-mê-ô và Giu-li-ét” là một trong những tác phẩm kịch nổi tiếng và đáng nhớ của Shakespeare. Dựa trên câu chuyện về một mối nợ máu truyền kiếp giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét ở thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ, Shakespeare đã xây dựng nên một bi kịch tình yêu. Vào năm 1595, ông cho ra mắt tác phẩm này, đánh dấu sự xuất hiện của một câu chuyện về tình yêu đầy xung đột giữa lòng yêu thương mãnh liệt và hoàn cảnh thù địch. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, tuy áp đặt của xã hội và mối thù truyền kiếp đã cản trở. Mối tình của họ chứng minh sức mạnh của lòng yêu và sự khả năng vượt qua mọi rào cản của con người. 

Thông qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận” với những cuộc đối thoại giữa Romeo và Juliet, người đọc có cơ hội chứng kiến tình yêu mãnh liệt của hai người trẻ, tình yêu vượt qua số phận và mối thù truyền kiếp. Họ gặp nhau tình cờ trong một buổi vũ hội và từ đó, tình cảm mạnh mẽ của họ đã được thể hiện. Romeo vượt qua khó khăn và nguy hiểm để đến gặp Juliet, thể hiện động cơ mạnh mẽ đẩy anh vượt qua mọi trở ngại. Mười sáu câu thoại trong đoạn “Tình yêu và thù hận” không chỉ là lời đàm thoại, mà còn là những tấm thư tình tuyệt đẹp, lãng mạn. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng những lời này được viết ra dưới cảm xúc đau khổ, thất vọng và thậm chí cả tính mạng của cả hai nhân vật.

Đoạn trích “Tình yêu và thù hận” diễn ra trong bầu không gian của một đêm khuya, khi trăng sáng rọi lên bầu trời, tạo nên bối cảnh lãng mạn cho tình yêu mãnh liệt của đôi tình nhân. Mặc dù khung cảnh đêm tối có sự thận trọng và kín đáo, nhưng tình cảm giữa Romeo và Juliet lại không thể công khai vì mối tình của họ bị cản trở. Romeo nhìn thấy Juliet đứng ẩn sau lùm cây, lặng ngắm cô trên ban công, nơi cô trở nên đẹp như một bức tranh thơ mộng. Trong bầu không gian đó, ánh trăng tỏa sáng tôn lên vẻ đẹp mĩ miều và thuần khiết của Juliet. Khi nghe những lời độc thoại của Juliet, Romeo mới dám lên tiếng. Anh hiểu rõ tấm lòng chân thành mà Juliet dành cho mình và sẵn sàng từ bỏ danh phận và tài sản để theo đuổi tình yêu.

Như vậy, qua những đoạn đối thoại, chúng ta thấy rõ sự phát triển tâm trạng của hai nhân vật. Romeo mang trong mình một tình yêu đơn giản và mạnh mẽ, trong khi Juliet đối diện với nhiều xung đột nội tâm do tình yêu và thù hận. Sự giao đồng và hỗ trợ lẫn nhau của họ đã giúp vượt qua mọi khó khăn, tạo nên một tình yêu mãnh liệt vượt qua mọi rào cản và đồng thời mang thông điệp về sức mạnh của tình người.


Mẫu 1

Nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh- Sếch-xpia trong thời đại Phục hưng, một thời đại mà được đánh giá là “bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy”. Thời đại mà chủ nghĩa nhân văn lên ngôi, kết tinh từ những khao khát tự do, được giải phóng khỏi những xích xiềng, phép tắc của chế độ phong kiến cũng như chủ nghĩa khổ hạnh của giáo hội thời kì trung cổ.

Chắc hẳn, trong mỗi chúng ta, không ai là không biết tới vở kịch để đời Rô-mê-ô và Giu-li-ét, tác phẩm nói về tình yêu thắm thiết của một đôi trai gái thuộc hai dòng họ có mồi thù từ lâu đời với nhau. Do những xô xát cũng như nhiều hiểu lầm, cuối cùng cả hai đã chọn cách tự tử. Cái chết của họ đã giúp cho cả hai dòng họ giải toả những oán hờn.

      Qua đó, Sếch-xpia đã lên án và tố cáo những thành kiến vô nhân đạo tồn tại trong chế độ phong kiến, đồng thời đề cao sự giải phóng những mối tình cảm tự nhiên, chân thành thoát khỏi sự ràng buộc của đạo đức phong kiến lạc hậu. Hai nhân vật đều là những hình tượng đẹp tiêu biểu cho con người thời kì Phục hưng : hồn nhiên, trung thực, hồn nhiên, trong sáng, có ý thức sâu sắc về quyền sống, quyền làm người của bản tha. Chất trữ tình trong nội dung và nghệ thuật xây dựng vờ kịch hấp dẫn đã giúp cho tác phẩm vươn lên trở thành một kiệt tác xuất sắc trong lịch sử văn học nhân loại.

Đoạn trích trong bài nói về cảnh đầu tiên gặp gỡ cùng thề nguyền sẵn sàng bất chấp mọi thù hận, sự ngăn cản giữa hai dòng họ của đôi bạn trẻ.

Tình cờ gặp gỡ buổi dạ hội, tiếng sét ái tình đã thúc dục, đưa bước chân Rô-mê-ô quay lại, trèo qua tường để vào vườn nhà nàng Giu-li-ét “dạ hội vừa kết thúc, Rô-mê-ô cùng bạn bè ra về nhưng chàng quay lại ngay, trèo tường vào vườn”. Dưới ánh trăng lãng mạn, huyền diệu, hai bạn trẻ đã bày tỏ cho nhau về tình yêu cháy bỏng của mình.

Trong khung cảnh trữ tình ấy, dưới con mắt của chàng Rô- mê- a, vầng trăng sao bì được với nhan sắc của Giu-li-ét. Nhà văn đã rất tài hoa khi để cho chàng so sánh vẻ đẹp của nàng với mặt trời mọc lúc rạng đông khiến cho mặt trăng trở nên héo hon, nhợt nhạt. Cũng như khi vầng thái dương từ từ mọc lên tỏa ra tia sáng chói lóa, hình ảnh Giu-li-ét thấp thoáng xuất hiện bên khung cửa sổ.

Từ đó, Sếch-xpia đã rất tài tình khi để cho mạch suy nghĩ của Rô- mê-ô tâp trung vào nhìn vào đôi mắt xinh đẹp của nàng Giu- li- ét và từ từ chuyển dần: "Nàng nhìn kìa, miệng nàng có nói gì đâu... Đôi mắt nàng lên tiếng", ánh mắt long lanh ấy đã khiến Rô-mê-ô ngỡ như đôi môi mấp máy. Rô-mê-ô so sánh đôi mắt của nàng sáng chói như hai ngôi sao đẹp nhất trên bầu trời đêm. Qua tâm hồn đắm say của Rô- mê- ô, chẳng có gì có thể so bì được với đôi mắt xinh đẹp ấy “Sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia ư ?... Đôi mắt nàng lên thay cho sao ư?”... Một cách đầy sự tự nhiên, hướng mạch suy nghĩ của chàng chuyển sang ca ngợi đôi gò má hồng đến cuối cùng: "Kìa, nàng tì má lên bàn tay ..."

Thông thường, người con gái sẽ chẳng bao giờ chủ động thổ lộ tình cảm của mình dành cho người mình yêu. Phải chăng do vô tình mà nàng Giu-li-ét đã làm chuyện đó. Khi biết được có kẻ đã nghe được tâm sự của mình, đầu tiên nàng nghi người đứng trong bóng tối ngoài kia là một kẻ xa lạ (lời thoại 8), nhưng rồi nàng mới rõ đó chính là chàng Rô-mê-ô (lời thoại 10). Chẳng phải ngẫu nhiên mà Giu-li-ét lại nhắc tới dòng họ Môn-ta-ghiu nhà Rô-mê-ô, mối thù truyền kiếp của hai dòng họ vẫn là một thứ ám ảnh đối với bản thân nàng. Những lời đáp lại đầy chân thành của Rô-mê-ô được thể hiện qua các từ ngữ "người yêu, nàng tiên yên quy',… với quyết tâm dứt khoát rời bỏ dòng họ Môn-ta-ghiu nhưng lại chưa bảo đảm chắc chắn tình yêu thật sự của Rô-mê-ô dành cho nàng. Bởi vậy nên Giu-li-ép đã hỏi một câu tưởng chừng như là dư thừa: ''Anh làm thế nào mà tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?"

Lời đáp của Rô-mê-ô cùng hai chữ "tình yêu" lần đầu được tác giả nói tới và nhắc đi, nhắc lại khoảng bốn lần đã làm cho nàng Giu-li-ét hoàn toàn tin tưởng vào tình yêu Rô-mê-ô dành cho mình. Chàng ấy đã vượt qua mấy bức tường đá để vào được nơi này, nhưng liệu rằng việc làm đó có hòa giả được được mối hận thù ngàn năm giữa hai dòng họ hay không?

Lời đáp của Rô-mê-ô trong lời thoại thứ 15 đã làm giải tỏa mối băn khoăn, bận tâm của nàng Giu-li-ét và câu nói: "Em chẳng đời muốn họ bắt anh nơi đây" là lời tế nhị nhằm đáp lại rằng bản thân mình đã chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô, có thể thấy khác hẳn với những lời lẽ táo bạo, quá mạnh dạn như lúc ban đầu khi nàng tưởng rằng không có ai nghe thấy lời mình nói.

Diễn biến tâm trạng của chàng Giu-li-ét đã thể hiện rất rõ nàng tình yêu chân thành, da diết mà mình dành cho Rô-mê-ô nhưng lại chẳng biết Rô-mê-ô có tình cảm với mình không, có yêu, có cảm xúc với mình hay không. Và dường như nàng ấy cũng đã sẵn sàng vượt qua mối thù hận giữa hai dòng họ để tiến tới với chàng, chỉ chờ chàng quyết định thôi. Qua đây độc giả có thể thấy rõ vấn đề "tình yêu và thù hận đã được đôi trẻ cùng nhau giải quyết".

Khát vọng tình yêu luôn luôn tiềm tàng và cháy trong trái tim khi con người chúng ta gặp được định mệnh của mình. Nhưng không phải ai cũng có đủ dũng khí và sức mạnh để vượt qua mọi rào cản, bảo vệ tình yêu của mình. Sức mạnh phải được tạo nên từ chính sự cộng hưởng của hai trái tim đang yêu. Và Rô-mê-ô và Giu-li-ét, họ không chỉ đã thành công đưa tình yêu của mình vượt qua chông gai mà còn khiến cho tình yêu ấy trở nên thăng hoa và tiến tới bất tử. Thiên tài nghệ thuật của nhà văn Sếch-xpia cùng với tư tưởng nhân văn sâu sắc vượt thời đại ông đã cộng hưởng và làm nên điều kì diệu đó.



Mẫu 2

Uy-li-am Sếch-xpia (1564-1616), sinh ra trong một gia đình thương nhân bình dân ở thị trấn Tây Nam nước Anh. Ông được mệnh danh là nhà viết kịch thiên tài, là "người khổng lồ" của nhân loại trong thời kỳ Phục Hưng. Ông đã để lại một khối lượng tác phẩm rất đồ sộ gồm 37 vở kịch và đều được được xếp vào hàng kiệt tác với nhiều thể loại khác nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch kinh điển về tình yêu, là kiệt tác văn học ra đời dựa trên mối thù hận có thực của hai dòng họ Môn-ta-giu và Ca-piu-lét tại I-ta-li-a thời trung cổ.

Sếch-xpia bằng tiếng nói nhân văn và tư tưởng tiến bộ, khát vọng tự do mãnh liệt đã mang đến một tình yêu trong sáng nhưng không kém phần mãnh liệt, dùng tình yêu tuyệt vời ấy để hóa giải đi mối hận thù của hai dòng họ vốn đã in sâu trong tâm trí hai con người trẻ tuổi. Đoạn trích Tình yêu và thù hận trích trong lớp hai, hồi II của vở kịch là những lời tâm sự tận đáy lòng của đôi trai tài gái sắc, hai trái tim cùng hướng về thứ tình yêu đích thực, sẵn sàng từ bỏ, vượt qua những rào cản thù hận dòng họ để đến bên nhau.

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét là tình yêu trên nền thù hận, với Giu-li-ét sự thù hận của hai dòng họ được nhắc đến như một nỗi sợ, nỗi ám ảnh thường trực, nàng không thể giấu nổi sự lo lắng, hoang mang lặp đi lặp lại trong từng lời thoại. Nàng lo lắng cho tình yêu mới chớm nở, lo lắng cho số phận của người mình yêu và của cả chính bản thân nàng. Khác với Giu-li-ét, Rô-mê-ô khi đối mặt với tình yêu và với thù hận của dòng họ, chàng lại có cách nghĩ và một thái độ khác hẳn, mà có lẽ rằng đó là đặc điểm riêng của phái mạnh, mang trong mình sự dũng cảm, cứng cỏi. Chàng luôn mang tâm thế sẵn sàng, vượt lên trên thù hận với thái độ quyết đoán, sẵn sàng từ bỏ cả tên họ, từ bỏ cả dòng tộc vì tình yêu với Giu-li-ét, đối với chàng trai trẻ tình yêu của chàng có thể vượt lên trên tất cả, vượt lên cái bóng đen u ám mãi quanh quẩn giữa hai dòng tộc.

Thế nhưng Rô-mê-ô cũng lại có một mối lo lắng khác, điều đó nằm ở tình yêu của Giu-li-ét, chàng quẩn quanh bởi những câu hỏi, những băn khoăn về vị trí của mình trong trái tim nàng, bởi nếu yêu mình sao nằng còn lo lắng và cứ mãi ậm ờ, không dứt khoát như thế. Rô-mê-ô nói "Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ", hóa ra trong đôi mắt chàng trai trẻ, chỉ có duy nhất Giu-li-ét khiến chàng không an tâm, khiến chàng phải e dè, bởi chàng đã yêu nàng quá sâu đậm, một lời từ chối của nàng cũng khiến Rô-mê-ô đau đớn hơn là vài chục lưỡi kiếm cắt vào da thịt. Có thể thấy rằng tuy cả hai nhân vật có những suy nghĩ khác nhau nhưng họ đều nhắc đến hận thù, nhưng không phải để khơi dậy hay khoét sâu nó mà nhắc tới để tìm cách vượt lên trên hận thù, để vun đắp tình yêu mới chớm nở của mình bằng tất cả trái tim và hi vọng cháy bỏng.

Trong đoạn trích chúng ta có thể nhận thấy rằng có hai kiểu đối thoại một là độc thoại nội tâm, và một là màn đối thoại trực tiếp của hai nhân vật. Trước hết màn độc thoại của từng nhân vật chính là những lời sâu tận đáy lòng mà họ muốn bộc bạch cùng trăng sao, họ muốn nói ra cho thỏa nỗi lòng mong nhớ. Những lời muốn ngỏ của Rô-mê-ô rất nhiều và được thể hiện qua những lời độc thoại rất dài khi chàng ngắm trộm Giu-li-ét bên khung cửa sổ "Kẻ chưa từng bị thương thì há sợ gì sẹo...mơn trớn đôi gò má ấy". Bối cảnh gặp gỡ của hai người là một đêm trăng sáng, không gian tĩnh mịch thanh vắng, trên trời những vì sao nhỏ lấp lánh, có thể nói đây là không gian vô cùng thích hợp để đôi lứa hẹn hò.

Có một điều đáng chú ý là trong mắt chàng Rô-mê-ô vẻ đẹp của Giu-li-ét sánh ngang với "mặt trời", điều ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trước hết là từ vị trí đứng của Rô-mê-ô khi chàng hướng mắt lên bắt gặp vẻ đẹp của người con gái trẻ trung, rực rỡ, vẻ đẹp ấy giống như ánh dương ấm áp sáng chói tâm hồn hồn chàng. Đặc biệt, nếu như trước khi nàng xuất hiện không gian chỉ có mình ánh trăng thanh lãnh thì đến khi Giu-li-ét đến bên cửa sổ, vẻ đẹp của nàng tỏa ra thứ ánh sáng cạnh tranh với thiên nhiên, thậm chí lấn át của ánh trăng khiến cho nó trở nên nhợt nhạt xanh xao, điều ấy khiến Rô-mê-ô chỉ có thể liên tưởng đến mặt trời, thứ ánh sáng độc nhất, vĩ đại nhất. Ngoài ra, xuất phát từ thần thoại La Mã về mặt trăng, mà bản thân Rô-mê-ô lại ao ước một tình yêu thực tế, tươi đẹp gần sát với trần thế, như vậy Giu-li-ét của chàng phải xứng đáng với hình tượng mặt trời ấm áp.

Thêm nữa, Giu-li-ét lại xuất hiện trong cuộc đời chàng, lúc chàng rơi vào tuyệt vọng, chán chường bởi nỗi buồn thất tình, chính tình yêu của nàng đã hồi sinh tâm hồn chàng, khiến chàng trở lại sự tươi vui, rực rỡ. Chàng Rô-mê-ô đã có một sự so sánh ngầm rằng, chính Giu-li-ét đã mang đến sức mạnh, củng cố nguồn sống, là sự hiện diện tuyệt đối cần thiết trong cuộc đời chàng, tựa như mặt trời với Trái Đất, nhờ có sức mạnh ấy mà chàng có thể vượt lên trên thù hận của gia tộc, rũ bỏ hết tất cả, kể cả họ tên để dũng cảm theo đuổi tình yêu. Bên cạnh vẻ đẹp tựa ánh sáng mặt trời, vẻ đẹp của Giu-li-ét hiện lên trong ánh mắt si tình của chàng Rô-mê-ô được đặc tả qua đôi mắt, chàng so sánh đôi mắt ấy tựa như hai vì tinh tú sáng nhất trên bầu trời, từ đó dùng làm đòn bẩy nâng cao vẻ đẹp nữ thần trong mắt chàng.

Có thể thấy rằng, rất cả các cách so sánh, cách gọi của Rô-mê-ô dành cho người con gái anh yêu đã thể hiện một đặc điểm của chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng, vẻ đẹp của con người đã được tôn vinh để sánh ngang với vẻ đẹp của vũ trụ, mang tầm vóc vũ trụ, thậm chí còn vượt trội hơn cả vẻ đẹp của thiên nhiên. Và vẻ đẹp của Giu-li-ét đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu đương mãnh liệt ở Rô-mê-ô và cũng từ vẻ đẹp ấy đã thức dậy những khao khát được thổ lộ, được gần gũi được chia sẻ, được thấu hiểu, điều ấy thể hiện qua lời thoại của chàng "Ôi, giá nàng biết nhỉ".

Nếu như Rô-mê-ô chỉ đơn giản là chìm đắm trong sự say mê của tình yêu bay bổng thì Giu-li-ét lại bị níu kéo bởi thực tế, một thực tế đau lòng, đó là mối thù sâu như biển giữa hai gia tộc. Ta có thể thấy rõ điều đó thông qua lời thoại nội tâm của nàng, "Ôi chao!" một lời thoại rất ngắn ngủi, tuy nhiên chúng ta có thể thấy những cảm xúc chất chứa dồn nén ở trong ấy, đó là tình cảm gói ghém dành cho mối tình đầu tiên của mình, nhưng cũng là tiếng thở dài lo lắng khi nghĩ đến việc chàng là con trai của dòng họ Môn-ta-giu. Ngoài ra đó cũng là nỗi băn khoăn của nàng về tình yêu của Rô-mê-ô dành cho mình liệu đã đủ lớn lao, đủ chân thành hay chưa. Đến lời thoại thứ hai, nàng gọi tên người yêu một cách rất thiết tha "Ôi Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô", thể hiện tình cảm trong mình một cách mãnh liệt, nhưng kèm theo đó lại là một câu hỏi đầy xót xa "Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ?".

Đồng thời nàng cũng lập tức nghĩ ra ngay giải pháp là một trong hai người họ phải từ bỏ dòng họ, có thể thấy rằng tình yêu của Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô là vô cùng lớn lao, là lời mách bảo chân thành của trái tim. Tuy nhiên sau khi nói ra những giải pháp ấy, Giu-li-ét đã dùng những lý lẽ để bảo vệ, biện minh cho việc từ bỏ dòng họ vì tình yêu "Chỉ có tên họ...đổi lấy cả em đây!". Dường như Giu-li-ét đã không còn là cô bé 14 tuổi nữa mà đã vụt trưởng thành, chín chắn, có thể nói tình yêu của nàng cũng chẳng kém Rô-mê-ô mãnh liệt sâu sắc và chân thành.

Sau khi kết thúc phần độc thoại nội tâm, hai nhân vật có có cuộc chạm mặt chính thức, trong những lời mà Giu-li-ét nói đều thể hiện một nỗi sợ hãi thường trực, nàng luôn gợi nhắc về mối thù của hai đại gia tộc mà hiện thân của nỗi lo lắng ấy chính là bức tường rào nhà nàng. Bức tường đá ấy bao quanh khu lâu đài nhà Ca-piu-lét để bảo vệ dòng họ khỏi sự đột nhập của những kẻ có ý đồ bất chính, bên cạnh nghĩa tả thực thì bức tường này còn mang nhiều ý nghĩa biểu trưng, đó là sự ngăn trở tình yêu, là rào cản, là mối thù sâu đậm của hai dòng họ, nó còn là biểu tượng cho nỗi lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của Rô-mê-ô, tình yêu của chàng liệu có đủ chân thành, đủ lớn để vượt qua những ngăn trở hay không, và ngược lại. Đặc biệt Giu-li-et còn thể hiện nỗi lo lắng luôn thường trực khi gọi chính khu vườn nhà mình là "tử địa" và cảnh báo cho Rô-mê-ô rằng nếu chàng bị bắt gặp chàng sẽ bị giết chết không nghi ngờ.

Trái lại Giu-li-ét thì suy nghĩ của Rô-mê-ô lại thoáng và nhẹ nhàng hơn rất nhiều, nếu như Giu-li-ét nhắc về thù của hai dòng họ, thì Rô-mê-ô đã lập tức khẳng định chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ để xóa bỏ mối thù. Chàng cũng xóa tan mọi băn khoăn lo lắng của Giu-li-ét về tình yêu của chàng bằng cách khẳng định chắc chắn về tình yêu mãnh liệt dành cho nàng "mấy bức tường đá ấy làm sao ngăn nổi tình yêu", "người nhà em ngăn sao nổi tôi",... hình bóng bức tường trở thành đòn bẩy, là công thức chính minh cho tình yêu của Rô-mê-ô.

Mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã khẳng định một cách mạnh mẽ sức sống và sự vực dậy mạnh mẽ vươn lên trên mọi nghịch cảnh của cuộc sống, mọi giới hạn của con người. Dẫu có là bi kịch nhưng tác phẩm của Sếch-xpia đã đem đến cho toàn nhân loại những nhận thức lớn về tình yêu, về sự khắc nghiệt của chế độ phong kiến, sự thù hận của tình người và quan trọng nhất chính là chủ nghĩa nhân văn sâu sắc mà ông muốn đề cao.


Mẫu 3

Uy-li-am Sếch-xpia là tác giả tiêu biểu của nền văn học châu Âu thời kì Phục hưng. Sống vào giai đoạn quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, ông đã nhanh nhạy nắm bắt được hơi thở, mạch đập của thời đại và đưa vào tác phẩm của mình. Và sự nghiệp sáng tác của Sếch-xpia là sự phản ánh và phê phán cả hai chế độ đó. Chế độ tư bản với những quan hệ “trả tiền ngay” rất tàn nhẫn của giai cấp tư sản buổi ban đầu đã được khái quát và điển hình hoá ở hình tượng tên lái buôn Do Thái Sai-lốc trong vở Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ và ở số phận vua Lia trong vở Vua Lia.

Sự tàn bạo, lạc hậu, hủ lậu đầy thành kiến của chế độ phong kiến già nua đã được phơi bày trong một loạt bi kịch của ông như Mác-bét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Ô-ten-lô… Sếch-xpia luôn lên tiếng ngợi ca con người và đòi quyền sống, quyền tự do đích thực cho họ. Nhân vật của Sếch-xpia là những con người mới của thời đại mới, những con người luôn sống bằng chính trái tim của mình, dám cất lên tiếng nói thể hiện khát vọng của mình, vượt lên mọi thù hận, mọi ràng buộc xã hội.

Rô-mê-ô và Giu-li-ét là đại diện tiêu biểu cho những con người ấy. Trong suốt thời trung cổ, cả châu Âu chìm trong đêm tối của chế độ phong kiến và nhà thờ. Mọi quyền tự do của con người dường như đều bị tước bỏ. Tư tưởng nhân văn cao đẹp của nền văn hoá Hi Lạp – La Mã cổ đại đều bị chìm trong đống đổ nát của những thành tựu văn hoá từng phát triển rực rỡ. Thời cổ đại người ta ngợi ca con người bao nhiêu thì thời trung cổ con người bị vùi dập bấy nhiêu. Phong trào văn nghệ Phục hưng ra đời đã đánh thức khát vọng của con người, đề cao con người và khẳng định con người là cao quý nhất. Hoàng tử Hăm-lét, nhân vật chính của vở kịch Hăm-lét, đứa con tinh thần yêu quý của Sếch-xpia, đã có một phát ngôn bất tử về con người : “Kì diệu thay là con người, về vẻ đẹp nó sánh ngang với thần thánh, trí tuệ sánh ngang với thượng đế. Con người thật là kì diệu, là trung tâm của vũ trụ, là kiểu mẫu của muôn loài.

Con người phải được thỏa mãn mọi nhu cầu vốn có như ăn, uống, ngủ, nghỉ, các sinh hoạt trần thế, sự hiểu biết và sự phát triển về mặt trí tuệ”. Phát ngôn này là sự kế tục tinh thần của Prô-ta- gô-rốt, nhà triết học cổ đại Hi Lạp : “Con người là thước đo của vạn vật”, là tư tưởng chung của chủ nghĩa nhân văn trong văn học Hi Lạp cổ đại và cũng chính là tư tưởng chủ đạo của văn học thời Phục hưng. Là tác giả tiêu biểu của văn học Phục hưng Anh, Sếch- xpia đã thể hiện sâu sắc tư tưởng này trong tác phẩm của mình. Sự vĩ đại của Sếch-xpia là sản phẩm của sự kết hợp giữa tài năng, sự hiếu học, sự phát triển rực rỡ của thời đại Phục hưng và hiện thực xã hội Anh cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Với sự thắng thế của tinh thần nhân văn chủ nghĩa, văn học Phục hưng giai đoạn đầu luôn vui tươi và tràn đầy tinh thần lạc quan.

Nhưng đến giai đoạn sau, tinh thần lạc quan ấy giảm dần bởi sự hiện hữu lạnh lùng của những quan hệ tư sản mới. Những mâu thuẫn giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực xã hội đầy phức tạp của buổi giao thời giữa phong kiến và tư bản đã để lại dấu ấn rất đậm nét trong sáng tác của các nhà văn Phục hưng. Và Sếch-xpia là đại diện tiêu biểu nhất. Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Sếch-xpia cũng có thể chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, trước năm 1600, sáng tác của nhà văn mang âm hưởng lạc quan, đây là thời kì của những vở hài kịch.

Giai đoạn sau, từ năm 1600 trở đi, chủ yếu ông sáng tác bi kịch. Vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét viết khoảng 1594 đến 1595, có thể coi là gạch nối tư tưởng hai giai đoạn sáng tác của ông. Tuy là một bi kịch tình yêu, kết thúc là cái chết của hai nhân vật chính nhưng vở bi kịch này không để lại âm hưởng thê thảm như những vở bi kịch ở giai đoạn sau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở kịch thơ xen lẫn văn xuôi vì vậy dù đã dịch sang văn xuôi nhưng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật vẫn là những câu văn vần rất uyển chuyển, nhịp nhàng tạo cho đoạn trích một sức hấp dẫn đặc biệt. Dù là độc thoại hay đối thoại, lời thoại của các nhân vật đều rất giàu chất thơ, có vần điệu.

Sau cuộc gặp gỡ ở buổi dạ hội, cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều đã mang trong mình mối sầu tương tư. Và như người ta vẫn nói, khi hai ánh mắt đã gặp nhau, trái tim đã đồng điệu là lúc hai tâm hồn đã thuộc về nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là hai người như thế. Vì vậy, họ mới có chung một cảm xúc và không hò hẹn, họ đã cùng nhau than thở dưới trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét. Những lời độc thoại và đối thoại của đôi trai gái trong Tình yêu và thù hận đã thể hiện họ là những con người biết yêu thương bằng chính trái tim mình. Đoạn trích gồm hai phần. Phần 1 gồm sáu lời thoại đầu. Hai người tự nói bộc lộ cảm xúc của mình. Chính tình huống kịch này đã làm tăng tính chất chân thành, say đắm của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Phần 2 là cuộc đối thoại trực tiếp giữa hai người.

Đoạn trích tập trung thể hiện nội dung chính là : mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ không cản trở được hai trái tim yêu mà chỉ làm họ say đắm hơn mà thôi. Họ sẵn sàng vượt lên tất cả để được yêu nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét đại diện cho những con người khao khát tự do và hạnh phúc. Họ sẵn sàng vượt lên hàng rào ấy để giành lấy tự do, hạnh phúc cho riêng mình. Họ sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để được đến bên nhau. Hành động này không phải là sự vô tình của kẻ dám từ chối gia đình mình, mà đó là sự từ chối những thành kiến vô lí. Giu-li- ét nói : “chàng hãy thề là chàng yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa”. Và Rô-mê-ô : “Chỉ cần em gọi tôi là người yêu, tôi sẽ thay tên đổi họ ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”.

Những lời tha thiết ấy của hai người đã chứng tỏ tình yêu say đắm của họ. Đó là một mối tình trong sáng và mãnh liệt. Dưới ánh mắt của chàng Rô-mê-ô đang yêu, Giu-li-ét đẹp và dịu hiền hơn tất cả. Với chàng, “nàng Giu- li-ét là mặt trời”. Rô-mê-ô đã dùng một loạt hình ảnh so sánh tuyệt vời nhất để miêu tả vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét : “chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về”. Lời thoại dài nhất của Rô-mê-ô trong đoạn trích là lời ca ngợi vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét còn lời thoại dài nhất của Giu-li- ét là đoạn bộc lộ tình yêu say đắm của nàng với Rô-mê-ô. Chính lời thoại này của Giu-li- ét thể hiện tư tưởng cốt lõi của đoạn trích : “Mông-ta-ghiu là cái gì nhỉ ? […] thì mười phân hàng vẫn cứ vẹn mười.”

Rô-mê-ô vượt tường rào vào vườn nhà Giu-li-ét chỉ vì nhớ nàng không thể ngủ được. Tình yêu đã làm chàng quên đi rằng vì mối thù truyền kiếp chàng có thể bị giết chết nếu bị người nhà Ca-piu-lét bắt. Khát vọng yêu là khát vọng của muôn đời và của mọi dân tộc. Trong văn học Việt Nam, nàng Kiều dám vượt qua hàng rào lễ giáo phong kiến “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến vườn Lãm Thuý thề nguyền cùng chàng Kim trong một đêm trăng : Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một lời song song.thì bên khung cửa sổ tràn đầy ánh trăng trong vườn nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt qua mối thù địch của hai dòng họ cũng thề nguyền cùng nhau với những lời tha thiết. Cuộc thề hẹn dưới trăng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã đánh thức khát vọng sống củacả thời đại.

Tình yêu của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ phong kiến đã dần mất tác dụng. Nó đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, con người đã được giải phóng khỏi những quy tắc hà khắc vô lí. Lời của Rô-mê-ô đã trực tiếp thể hiện điều này, “Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu ; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu; mà cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm…”. Cuộc đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích đã khẳng định rằng tình yêu có thể vượt lên tất cả. Và chỉ tình yêu có quyền lên tiếng trong trái tim hai người đang yêu.

Tuy đoạn trích không có những xung đột đầy kịch tính như các hồi kịch khác nhưng tính kịch vẫn được thể hiện rất rõ qua ngôn ngữ và hành động kịch, đó là hoàn cảnh đầy bất trắc, là cảm xúc yêu thương mãnh liệt, là những băn khoăn trước sự trái ngang của tình yêu. Với một giọng văn thấm đẫm chất thơ và cảm hứng lãng mạn, Sếch-xpia đã tạo nên một đêm trăng thề hẹn thật trữ tình. Tình yêu trong sáng thuần khiết của đôi trẻ đặt bên cạnh mối thù hận truyền kiếp làm cho mối thù ấy trở nên vô nghĩa và mang đầy tính chất phản nhân văn. Ngôn ngữ kịch của Sếch-xpia vốn rất giàu nhạc tính và hình ảnh với những lối ví von so sánh rất gợi cảm, nhất là những câu Rô-mê-ô miêu tả vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét.

Mặc dù đã dịch sang văn xuôi nhưng đó vẫn là những câu văn uyển chuyển, gợi cảm và thấm đẫm chất thơ. Ngôn ngữ đối thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét tràn đầy tình yêu thương, nó thể hiện sự đồng điệu tâm hồn của hai người trẻ tuổi. Chỉ một lần gặp nhau với thời gian ngắn ngủi nhưng dường như họ đã hiểu hết những điều người kia muốn nói. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy gặp nhiều trở ngại nhưng họ đều đã dũng cảm vượt qua, và đến cái chết cũng không chia lìa được họ. Cái chết của hai người đã thức tỉnh và hoá giải được mối thù của hai dòng họ.

Tình yêu của họ đã làm được điều mà chính quyền lực của Vương chủ thành Vê-rô-na cũng không làm được. Mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành một huyền thoại tình yêu thật đẹp, là tình yêu lí tưởng cho toàn nhân loại. Cho đến nay con người vẫn khao khát một tình yêu như thế.