Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm)

Trong đoạn trích "Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” tiếng nói ai oán đối với chiến tranh của người thiếu phụ trong khúc ngâm chung quy chỉ có sầu với nhớ và hết nhớ lại sầu.


   Trong đoạn trích ‘Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” tiếng nói ai oán đối với chiến tranh của người thiếu phụ trong khúc ngâm chung quy chỉ có sầu với nhớ và hết nhớ lại sầu. Tuy nhiên diễn biến tâm trạng thì muôn hình ngàn vẻ không hề lặp lại, cục diện phát triển theo những bước ngoặt mới hết sức hợp lí mà tinh vi, xúc động. Chán ngán với hiện tại đau buồn, nàng lần về những ngày êm đẹp của quá khứ; đối diện với cảnh thực phũ phàng, nàng tìm về cảnh mộng; khi giấc tàn mộng tỉnh năng bối rối trăm phần; tiếp đến là oán trách và lo âu, ước ao và luyến tiếc... cuối cùng là một trời hi vọng... Bút pháp tả tình kì diệu đã tôn giá trị nhân văn bất diệt của giai tác.

   Nỗi sầu muộn trong đoạn trích được coi là một trong những đoạn tiêu biểu thể hiện nét độc đáo của bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật.

   Đoạn trích gồm năm khổ, là chỉnh thể của một bước ngoặt mới về diễn biến tâm trạng người chinh phụ trong quá trình nhớ chồng. Ta có thể hình dung sau những ngày tháng chim đắm trong sầu tư khắc khoải:

Khắc giờ đằng dằng như niên

        Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

       Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

      Gương gượng soi lệ lại chứa chan

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

                  Dây duyên kinh đứt, phím loan ngại trùng.

   Tưởng như cõi lòng tan nát thì bốn câu tiếp theo (khổ 1, đoạn trích) lại ngân lên một khúc nhạc mới cao vút:

     Lòng này gửi gió đông có tiền

         Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền

                       Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời!

   Gió đông tức là gió xuân tươi mát, làm dịu cảnh vật và lòng người sẽ chuyển nỗi nhớ đến miền đất lạ mong được chia sẻ với đức lang và chuyển nỗi nhớ đến miền đất lạ mong được chia sẻ với đức lang quân. Non yên - núi Yên Nhiên là một địa danh bên Tàu, nơi đã từng nổ ra những cuộc kịch chiến, nhưng ở đây mang tính tượng trưng cho một miền đất xa xôi. Cái không gian ngút tầm mắt được hình dung cụ thổ là đường lên bằng trời cao rộng xa thẳm.

   Tiếc thay, bi kịch của tâm trạng nào đó được giải vây? Càng hi vọng bao nhiêu thì càng chuốc lấy thất vọng bấy nhiêu! Cái logic khách quan thường là như vậy.

   Hai câu thất ngôn của khổ 2 tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa cay đắng. Đất trời dường như bao la bát ngát đến vô hạn (thăm thẳm: không có đích; xa vời: không giới hạn): trời thăm thẳm xa vời khôn thấu! Nỗi lòng ném ra xa để rồi trở lại về với bao nối giày vò, vướng víu, trăm trở (đau đáu) khống sao gỡ được! Hơn cả nỗi buồn, nó chuyển thành nỗi đau khôn tả (thiết tha lòng = đau đớn như bị chà đi xát lại)! Cảnh buồn người thiết tha lòng. Đúng như thi hào Nguyên Du sau này đúc kết Cánh nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ! Tiếp theo là một loạt tâm cảnh xuất hiện. Từ giọt sương, tiếng trùng, đến mưa xuân rả rích bình thường mà như ẩn tàng một sức mạnh ghê gớm; nó gây nên bao nỗi đoạn trường không sao chịu nổi! Nét đặc sắc và biện pháp tư từ ẩn dụ mang lại hiệu quả tuyệt vời. Một cách so sánh và phối hợp hình tượng mang tính hô ứng vừa gợi cảm giác mạnh (sương tuyết bổ mòn, xẻ héo; búa bổ, cưa xẻ: danh từ và động từ chính xác), vừa tạo âm thanh lắng đọng (kêu vẳng: vang xa; nện khơi: tiếng gõ từ xa vọng lại) như khơi sâu, như bào mòn chút nghị lực còn lại của người trong cuộc!

   Chưa hết, trong khổ 4, người thiếu phụ hiện lên trong trạng thái thẫn thờ: nghe tiếng mà không phân biệt được âm thanh (tiếng dế) thấy hình mà không nhìn ra ảnh (nguyệt soi). Chỉ sau khi có ngọn gió mạnh (thốc = tốc thẳng) xuyên màn vén bức là lên thì nàng mới sực tỉnh để chứng kiến một cảnh sống động đang khơi dậy:

Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.

   Câu kết thúc khổ 4 mở ra một diễn biến bất chợt.

   Bằng biện pháp liên hoàn trùng điệp (sự móc nối nhiều ý và lời trong câu, trong cả khổ 5) vốn là sở trường của cả khúc ngâm, khơi gợi cảnh trăng và hoa bện quyện xoắn xuýt lấy nhau, tỏa sắc lên hương, tượng trưng cho niềm vui và tuổi trẻ. Ngòi bút cực tả tâm trạng nhập cuộc đắm say, khát khao tận hưởng niềm vui hiếm hoi và bất ngờ. Phải chăng thiếu phụ đã lấy lại được

   Trạng thái thăng bằng? Không, câu bát cuối khổ thơ: Trước hoa dưới nguyệt rong lòng xiết đau đưa độc giả vào một chặng mới của tâm tư: nàng đâu đã cất được mối sầu!

   Tóm lại, bút pháp tả tình của tác giả là như vậy. Nói như Hoài Thanh: có lúc ta tưởng như ngòi bút sẽ rơi vào chốn sơn cùng thủy tận; nhưng không, những cục diện mới tiếp tục hiện ra. Cả khúc ngâm đọng thành một mối sầu vạn cổ mà không gây nhàm chán vì sự diễn biến tinh vi mà phong phú đa dạng của đời sống chinh phụ hấp dẫn lòng người vì giá trị văn cao cả được khắc họa nghệ thuật cổ điển tuyệt vời.


Bài học bổ sung