Soạn bài Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức siêu ngắn

Soạn bài Tiếng mẹ đẻ - Nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức siêu ngắn nhất SGK Ngữ văn 11 tập 2, giúp tiết kiệm thời gian soạn bài


Câu 1

Câu 1 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Nguyễn An Ninh phê phán nhiều hành vi trong thói học đòi “Tây hóa”:

- Thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn diễn dạt cho mạch lạc bằng tiếng nước mình, cóp nhặt và thể hiện những cái tầm thường của phong hóa châu Âu trong khi mù tịt về văn hóa ấy.

- Tạo nên những ngôi nhà có kiến trúc và trang trí lai căng.

- Từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ.


Câu 2

Câu 2 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Theo tác giả, tiếng nói có tầm quan trọng lớn lao với vận mệnh dân tộc: “Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị”.


Câu 3

Câu 3 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Nhận định tiếng “nước mình” không nghèo nàn, tác giả căn cứ vào các dẫn chứng và lý lẽ.

- Lý lẽ: Khẳng định nhiều người An Nam chỉ biết những từ thông dụng và chính họ còn nghèo vốn từ An Nam hơn cả những người phụ nữ, nông dân An Nam; do sự bất tài của con người.

- Dẫn chứng: Lấy ngôn ngữ của Nguyễn Du chứng minh cho sự giàu có của tiếng Việt; người An Nam có thể dịch những tác phẩm của Trung Quốc.


Câu 4

Câu 4 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

Quan niệm của tác giả về mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ “nước mình”:

- Học tiếng nước ngoài để làm giàu cho ngôn ngữ nước mình.

- Ngôn ngữ là kênh để giúp giới trí thức nước ta hiểu châu Âu, tiếp cận tri thức châu Âu và truyền bá cho đồng bào mình.


Câu 5

Câu 5 (trang 91 SGK Ngữ văn 11 tập 2)

- Trong hoàn cảnh nước nhà đang bị thực dân thống trị, câu nói “Nếu người An Nam hãnh diện… vấn đề thời gian” đúng nhưng chưa đủ vì để giải phóng dân tộc cần có cuộc cách mạng toàn diện trên mọi mặt trận, trong đó đặc biệt phải có đấu tranh vũ trang đánh đuổi kẻ thù khỏi bờ cõi. 


Tóm tắt

     Bài nghị luận Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức là tác phẩm thể hiện lòng tự hào dân tộc, nhiệt tình bảo vệ và xây dựng nền văn hóa Việt Nam của Nguyễn An Ninh.

     Mở đầu bài viết, tác giả phê phán một số người do thiếu hiểu biết, thích học đòi lối sống “Tây hóa”. Họ bập bẹ năm ba tiếng Tây để làm cho oai nhưng thực chất họ làm tổn thương tiếng mẹ đẻ và tự bộc lộ là người kém văn hoá. Đó là biểu hiện của dấu hiệu mất gốc văn hóa.

     Phần tiếp theo, tác giả khẳng định tiếng mẹ đẻ là nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức đồng thời chứng minh rằng: Tiếng Việt rất giàu có. Đó là tiếng nói hằng ngày của những con người lao động bình thường, là những tác phẩm văn thơ bất hủ của Nguyễn Du...

     Phần kết thúc, tác giả nhấn mạnh quan điểm: nên học tiếng nước ngoài để thu nhận kiến thức và không khinh rẻ, từ bỏ tiếng mẹ đẻ. Học tiếng nước ngoài chính là một cách làm giàu thêm cho ngôn ngữ nước mình.


Bố cục

- Phần 1 ((Từ đầu đến "người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng"): Nêu hiện tượng học đòi Tây hóa.

- Phần 2 (Tiếp theo đến "hay sự bất tài của con người?"): Vai trò của tiếng mẹ đẻ đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

- Phần 3 (còn lại): Mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước mình với nước ngoài.


ND chính

- Tiếng nói là tài sản quý giá của dân tộc, phải biết bảo vệ nó và làm cho nó ngày càng phát triển.

- Tiếng mẹ đẻ còn là nguồn giải phóng dân tộc bị áp bức.

- Tầm nhìn chiến lược của Nguyễn An Ninh về vai trò và tiếng nói dân tộc.

Bài giải tiếp theo