Soạn bài Ôn tập truyện và kí - Ngữ văn 6 tập 2

Soạn bài Ôn tập truyện và kí trang 117 SGK Ngữ văn 6 tập 2. Câu 4. Trong những tác phẩm được học nhân vật nào em thích, phát biểu những suy nghĩ của bản thân về nhân vật ấy.


Lời giải chi tiết

1. Trong các bài từ 18 đến 22 và 25, 26, 27 chúng ta đã học cac tác phẩm truyện (hoặc trích đoạn truyện) và kí hiện đại. Em hãy đọc lại các tác phẩm đó rồi làm bảng kê.

Trả lời:

 
 
 
2. Chép lại tên các tác phẩm (hoặc đoạn trích) và thể loại vào bảng theo mẫu trong SGK, đánh dấu × vào vị trí tương ứng ở các cột tiếp theo nếu thấy có yếu tố đó. 

Nhìn vào bảng thống kê đã làm, em hãy nhận xét: Những yếu tố nào thường có chung ở cả truyện và ký.

Trả lời:

 * Yếu tố thường có chung ở cả truyện và ký là nhân vật kể chuyện. Điều này cho ta thấy các thể truyện và phần lớn các thể ký đều thuộc loại hình tự sự.

3. Những tác phẩm được học đã để lại cho em cảm nhận gì về đất nước, về cuộc sống và con người?

Trả lời:

Các truyện, ký đã học giúp cho chúng ta hình dung và cảm nhận được nhiều cảnh sắc thiên nhiên đất nước và cuộc sống con người ở nhiều vùng, miền, từ cảnh sông nước bao la, chằng chịt trên vùng Cà Mau cực nam Tổ quốc, đến sông Thu Bồn ở miền Trung êm ả và lắm thác ghềnh; rồi vẻ đẹp trog sáng rực rỡ của vùng biển Cô Tô, sự giàu đẹp của vịnh Bắc Bộ đến thiên nhiên làng quê miền bắc qua hình ảnh các loài chim... Cùng với cảnh sắc thiên nhiên đất nước là hình ảnh con người và cuộc sống của họ, trước hết là những người lao động. Một số truyện ký đã đề cập những vấn đề gần gũi, quan trọng trong đời sống tình cảm, tư tưởng và các mối quan hệ của con người.

4. Trong những tác phẩm được học nhân vật nào em thích, phát biểu những suy nghĩ của bản thân về nhân vật ấy.

Đề 1 : Cảm nghĩ về nhân vật Kiều Phương trong truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi - tác giả Tạ Duy Anh.

Bài làm tham khảo

Đọc truyện ngắn Bức tranh của em gái tôi, chúng ta hiểu rằng dụng ý của tác giả không phải chỉ ca ngợi, khẳng định những nét đẹp trong phẩm chất, tính cách của người em mà chủ yếu là bài học về sự thức tỉnh qua nhân vật người anh. Tuy nhiên nhân vật Kiều Phương vẫn để lại những ấn tượng đẹp dù chỉ qua những khắc hoạ không nhiều của tác giả.

Vẻ đẹp của Kiều Phương không phải do lời kể của tác giả, cũng không phải do nhân vật tự bộc bạch mà vẻ đẹp đó được hiện ra dần dần qua con mắt nhìn và lời kể truyện của chính người anh. Một người anh luôn “coi thường” những việc làm của cô em gái, đố kị trước tài năng của em gái mình, vẻ đẹp đó càng ngày càng đẹp. cho đến cuối truyện thì vẻ đẹp ấy đọng lại một cách sâu sắc trong lòng người anh và gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc.

Vẻ đẹp đó là gì? Phải chăng là sự hồn nhiên, hiếu động, tài năng hội hoạ, tình cảm trong sáng và lòng nhân hậu?

Không hồn nhiên thì sao có biệt hiệu là “Mèo”, “nó vui vẻ chấp nhận” và còn dùng cái tên đó để xưng hô với bạn bè. Sự hồn nhiên đó còn được thể hiện lúc ở nhà mèo hay lục lọi các đồ vật với một sự thích thú. Hồn nhiên hơn là “nó vênh mặt” - “Mèo mà lại! Em không phá là được... Khi người anh tỏ vẻ khó chịu: - Này, em không để chúng nó yên được à?. Khi chế xong bột vẽ, nó vừa làm vừa hát, có vẻ vui lắm. Đúng là một cô bé hồn nhiên quá! Hồn nhiên đến đáng yêu!

Điều đáng yêu hơn là cô còn có một tài năng hội hoạ, theo lời chú Tiến Lê, đấy còn là một thiên tài hội hoạ. Tài năng đó chính là sáu bức tranh do “Mèo” vẽ dấu người anh, không ngờ là những bức tranh độc đáo “có thể đem đóng khung treo ở bất cứ phòng tranh nào”. Bố của “Mèo” đã phải thốt lên sung sướng: Ôi! con đã cho bố một bất ngờ quá lớn. Mẹ em cũng không kìm được xúc động.

Tài năng của Kiều Phương được khẳng định bằng bức tranh được trao giải nhất, qua một tuần tham gia trại thi vẽ quốc tế, khiến cho cả nhà “vui như tết”. Duy chi có người anh của Mèo thì lại rất buồn. Hiểu được điểu này, Kiều Phương đã dành cho anh trai những tình cảm rất trong sáng. Nó lao vào ôm cổ tôi, nhưng tôi viện cớ đang dở việc đẩy nhẹ nó ra. Tuy thế, nó vẫn kịp thì thầm vào tai tôi: Em muốn cả anh cùng đi nhận giải. Một hành động, một lời nói thôi đã toát lên một tâm hồn ngây thơ trong sáng sủa. Một cô bé đáng yêu!

Con có nhận ra con không... ?

Con đã nhận ra con chưa? Làm sao con trả lời được mẹ. Bởi đấy là tâm hồn và lòng nhân hậu của em con đấy. Phải chẳng soi vào bức tranh ấy, cũng chính là soi vào tâm hồn trong sáng và nhân hậu của em gái, nhân vật người anh đã tự nhìn rõ hơn về mình để vượt lên được những hạn chế của lòng tự ái và tự ti: Dưới mắt em tôi, tôi hoàn hảo đến mức kia ư? Đây chính là lúc nhân vật tự “thức tỉnh” để hoàn thiện nhân cách của mình.

Có thể nói, thành công của truyện ngắn không chỉ ở việc xây dựng nhân vật người anh. Nhân vật Kiều Phương “Mèo” còn với tấm lòng nhân hậu, vừa đời thường vừa rất cổ tích đã góp phần cho sự hấp dẫn của tác phẩm. Nét đẹp ấy ta có thể bắt gặp thật nhiều trong cuộc sống nó làm cho cuộc sống của chúng ta thêm đáng yêu, đáng quý.

Đề 2: Cảm nghĩ về nhân vật dượng Hương Thư trong đoạn trích Vượt thác của nhà văn Võ Quảng

Bài làm tham khảo

Đúng như tên của văn bản: vượt thác, sau khi miêu tả dòng Thu Bồn và cảnh quan hai bên bờ theo hành trình của con thuyền tác giả đã tập trung miêu tả cảnh vượt thác. Qua ngòi bút của tác giả, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp và sức mạnh phi thường, quyết tâm vượt thác của con người mà chủ yếu là nhân vật dượng Hương Thư trên nền thiên nhiên hùng vĩ.

Cảnh vượt cổ cò đã gây ấn tượng mạnh mẽ bởi sự hung dữ của thác nước và sự dũng mãnh phi thường của con người.

Dượng Hương Thư cùng chú Hai và Cù Lao liên tục phóng sào tre được bịt sắt xuống dòng sông Soặc! Soặc! Con người đã dùng hết sức lực chống lại dòng thác. Dượng Hương Thư ghì chặt đầu sào, trụ lại, sào uốn cong. Thuyền vùng vằng như muốn trụt xuống, quay đầu về làng. Một loạt động từ mạnh trụ, ghì, phóng, uốn được dùng phù hợp với công việc nặng nhọc, khẩn trương của người lái, người chèo. Đặc biệt từ láy vùng vằng dùng rất đắt diễn tả sự cố gắng chống chọi của con người, sự ngang ngược của dòng thác, sự khó bảo của con thuyển.

Miêu tả con người trong cuộc chiến với thác dữ, nhà văn còn dùng nhiều phép so sánh nghệ thuật. Có so sánh bằng thành ngữ dân gian những động tác thả sào, rút sào rập bằng nhanh như cắt. Nhưng nhiều hơn là những so sánh bằng những hình ảnh hợp lý góp phần vào việc khắc hoạ vẻ đẹp rắn chắc và dũng mãnh của người lao động như một pho tượng đồng đúc. Hình ảnh so sánh tô đậm vẻ đẹp của dượng Hương Thư của con người sẵn sàng vượt thác. Cách so sánh không có gì mới lạ mà ta vẫn thường gặp “Chị lao công như sắt như đồng” (Tố Hữu), nhưng đã đem đến cho người đọc một hình ảnh của người lao động mà đâu đó ta vẫn gặp trong cuộc sống đời thường. Dượng Hương Thư còn hiển hiện lên như một anh hùng Ihoại xưa với tầm vóc và sức mạnh phi thường giống như một hiệp sĩ của Trường sơn oai linh hùng vĩ. Phải chăng sức mạnh đó đã làm nổi bật cái “thần” nhằm tôn vinh hình ảnh con người trước thiên nhiên hung vĩ.

Một sự “đột phá” nữa trong nghệ thuật so sánh của Võ Quảng đã gây sự chú ý cuốn hút người đọc dượng Hương Thư ở nhà nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gợi cũng vâng vâng dạ dạ. Sự đối lập này càng làm nổi bật vẻ đẹp hùng dũng của nhân vật. Đồng thời nhà văn hé mở cho chúng ta hiểu biết thêm những đức tính đáng quý của người lao động: khiêm tốn, nhu mì trong cuộc sống đời thường.

Có thể nói nhờ quan sát tinh tế, miêu tả cụ thể bằng những hình ảnh so sánh vừa mới lạ, vừa sáng tạo độc đáo nhà văn đã tái hiện hình ảnh dượng Hương Thư lúc vượt thác. Người đọc cảm nhận được nhiều nét đẹp của người lao động chân chính như: phi thường, dũng mãnh, khoẻ khoắn nhưng lại hết sức khiêm nhường, giản dị. Đó cũng chính là những nét đẹp tiêu biểu của con người Việt Nam.


Bài học bổ sung