Soạn bài Bài ca ngất ngưởng (chi tiết)
Soạn bài Bài ca ngất ngưởng - Ngữ văn 11. Câu 3. Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
Câu 1
Câu 1 (trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Trong Bài ca ngất ngưởng, từ "ngất ngưởng" được sử dụng mấy lần? Anh (chị) hãy xác định nghĩa của từ "ngất ngưởng" qua các văn cảnh sử dụng đó.
Lời giải chi tiết:
- Trong bài thơ, từ "ngất ngưởng" được lặp lại bốn lần.
- Ngất ngưởng từ láy tượng hình vốn được dùng sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định
- Nghĩa của từ "ngất ngưởng" trong bài: thể hiện bản lĩnh cá nhân, nhất là bản lĩnh này lại được thể hiện trong xã hội Nho giáo đề cao lễ nghĩa, thủ tiêu cá nhân.
+ Đoạn đầu, tác giả kể một cách khái quát các chặng đường làm quan và cho biết "Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng". Có thể đoán, sự ngất ngưởng mà ông thể hiện khi làm quan là bản lĩnh coi thường việc làm quan như bị trói buộc hay giam hãm trong lồng cũi. Sở dĩ phải làm quan vì đó là vị trí cần có để nhà nho thực hiện trách nhiệm với đời và do đó, kể cả khi làm quan, ông vẫn giữ lối sống tự do, không chấp nhận ra luồn vào cúi.
+ "Ngất ngưởng" cũng còn có nghĩa là sống theo ý thích mà không quan tâm đến sự đàm tiếu của dư luận (hai sự việc: cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa và cùng các cô hầu gái lên chùa). Ông khái quát thái độ bình thản của mình trước mọi chuyện được mất, khen chê. Ông muốn là một người tự nhiên, không muốn sống như Tiên, Phật cao siêu mà cũng không phải kẻ phàm tục, tầm thường.
Câu 2
Câu 2 (trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Dựa vào văn bản Bài ca ngất ngưởng, anh (chị) hãy giải thích vì sao Nguyễn Công Trứ biết rằng việc làm quan là gò bó, mất tự do (vào lồng) nhưng vẫn ra làm quan.
Lời giải chi tiết:
- Nguyễn Công Trứ biết làm quan và mất tự do. Ông coi chốn quan trường là cái lồng giam hãm con người (Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng) nhưng ông vẫn ra làm quan bởi:
+ Nguyễn Công Trứ là một nhà nho, ông mang trong mình hoài bão vì nước vì dân, ý chí lớn lao.
+ Phò vua giúp nước, xứng đáng là trang nam nhi, trả nợ công danh ở đời.
=> Điều quan trọng là trong môi trường trói buộc, ông vẫn thực hiện được lý tưởng xã hội và giữ được cá tính riêng.
Câu 3
Câu 3 (trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Ở bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự kể về mình. Vì sao ông cho mình là ngất ngưởng? Ông đánh giá sự ngất ngưởng của mình như thế nào?
Lời giải chi tiết:
- Ông cho rằng mình ngất ngưởng là vì ông tự ý thức được tài năng, bản lĩnh, phẩm chất và nhân cách hơn người, hơn đời của mình.
- Dẫn chứng thể hiện sự "ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ:
+ Người ta cưỡi ngựa đi giao du thiên hạ thì ông cưỡi bò, lại còn đeo cho một cái đạc ngựa
+ Đi thăm thú cảnh chùa mà vẫn đeo kiếm cung bên người và mang theo “một đôi dì”.
=> Cốt cách của một khách tài tử, văn nhân chính là ở đó… Đó là lối sống phá cách của một con người thích làm những chuyện trái khoáy ngược đời để ngạo đời, thể hiện thái độ và khát vọng sống tự do tự tại.
- Không bận tâm đến những lời khen chê, những chuyện được mất. Đó là một quan niệm sống, triết lý sống phóng khoáng tự do, thoát khỏi vòng danh lợi tầm thường. Coi sự được mất là lẽ thường tình, ông đã ra khỏi vòng danh lợi để sống thảnh thơi, tự do, tự tại để hướng mọi lạc thú, cầm, kỳ, thi, tửu, giai nhân giữa cuộc đời trần thế một cách thoả thích.
- Câu cuối: thể hiện sự đắc ý và sảng khoái nhất về cái tôi ngông độc đáo của mình (Trong triều ai ngất ngưởng như ông).
=> Giọng điệu tự thuật khẳng khái, đầy cá tính đã cho thấy ông sòng phẳng, thẳng thắn và có ý thức về cách sống của mình. Nguyễn Công Trứ tự hào vì đã có một cuộc sống hoạt động tích cực trong xã hội. Ông cũng tự hào vì mình dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của "lễ" và "danh giáo".
Câu 4
Câu 4 (trang 39 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Hãy chỉ ra những nét tự do của thể hát nói so với thơ Đường luật và cho biết ý nghĩa của tính chất tự do đó.
Lời giải chi tiết:
Thể hát nói có những nét tự do, nhất là so với thể thơ Đường luật.
- Về số câu, tuy thông thường trong một bài hát nói có 11 câu nhưng loại lệ khá nhiều (bài này có 19 câu).
- Số chữ của mỗi câu cũng không theo quy định cứng nhắc mà uyển chuyển. Câu dài có thể đến 10 chữ, câu ngắn 6 chữ.
- Về vần, cũng có sự linh hoạt chứ không hạn vận. Có thể có những cặp đối xứng nhau nhưng bài hát nói không quy định chặt chẽ về đối.
- Không có luật chính thức về bằng trắc quy định chặt chẽ như thơ Đường luật.
Do tính chất khá tự do nên bài hát nói thích hợp với việc diễn tả những cảm xúc mạnh mẽ, khoáng đạt, phóng túng như lối sống ngất ngưởng.
Luyện tập
Cau hỏi (trang 50 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Theo anh (chị), so với Bài ca phong cảnh Hương Sơn (bài đọc thêm, tr.50), Bài ca ngất ngưởng có sự khác biệt gì về mặt từ ngữ.
Lời giải chi tiết:
Sự khác biệt về từ ngữ giữa bài thơ Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài ca phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh:
- Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng vừa phù hợp với nội dung, vừa phù hợp với phong cách của Nguyễn Công Trứ. Nó phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ.
- Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thấm đẫm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.
Bố cục
Bố cục: 2 phần
- Phần 1 (6 câu đầu): Nguyễn Công Trứ khi còn làm quan.
- Phần 2 (13 câu sau): Nguyễn Công Trứ khi đã cáo quan về hưu.
ND chính
Phong cách sống có bản lĩnh cá nhân (được gọi là "ngất ngưởng") của Nguyễn Công Trứ trong khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. |
Search google: "từ khóa + timdapan.com" Ví dụ: "Soạn bài Bài ca ngất ngưởng (chi tiết) timdapan.com"