Hãy phân tích hình ảnh người phụ nữ trong tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà

Tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà được viết theo ngôi kể thứ nhất, chất tự sự xen lẫn trữ tình, miêu tả giúp ta hình dung được sự hi sinh thầm lặng của những người phụ nữ


Tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà được viết theo ngôi kể thứ nhất, chất tự sự xen lẫn trữ tình, miêu tả giúp ta hình dung được sự hi sinh thầm lặng của những người phụ nữ.

Mở đầu tản văn tác giả giới thiệu hoàn cảnh chia tay nhân vật Dượng Bảy, được tác giả giới thiệu rõ ràng: “Sau khi Hiệp định Geneve được kí kết, cuối năm 1954 ở quê tôi gần một nửa gia đình có người thân đi tập kết ra miền Bắc. Không khí làng quê chùng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam”. Đó là một hoàn cảnh đặc biệt khi mà dượng Bảy và dì mới cưới, còn là vợ chồng son: “Mới một tháng trước đó, nhà tôi rộn rã với đám cưới của dì Bảy. Dượng Bảy người Tam Kid, mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới. Chỉ một tháng sau là đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.” Từ đây, suốt ngần ấy năm cuộc đời dì Bảy ở vậy chờ chồng trước hiên nhà. Dượng Bảy và dì Bảy gắn bó với nhau chỉ ít ngày và hạnh phúc cũng chỉ ngắn ngủi như vậy. Nhưng suốt cả một cuộc đời dỉ Bảy vẫn ngồi đợi chồng trước hiên nhà.

Mạch cảm xúc nhẹ nhàng, dẫn dắt người đọc đi theo kí họa về cuộc đời dì Bảy. “Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về. Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn. Hình như lời cầu nguyện của dì linh ứng để dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.”. Dì vẫn luôn cầu mong dượng còn sống, những tin tức truyền về thường xuyên trở thành niềm hi vọng lớn lao với dì Bảy. Khi những người em của dì lần lượt trở về nhưng dượng vẫn không có tin tức dì vẫn ngồi trước hiên nhà chờ đợi. “Dì Bảy tôi lại ngồi trước hiên nhà mỏi mắt nhìn ra đường cái. Nhưng hai cậu tôi lần lượt trở về mà dượng Bảy vẫn không tin tức”. Dì Bảy trở thành quả phụ, tác giả không miêu tả rõ sự đau khổ của dì Bảy, không đi sâu vào tâm lí nhân vật như trong truyện ngắn mà liên tưởng tới những câu chuyện cổ với hình ảnh người kị sĩ trong chiến trận – một sự liên tưởng độc đáo, hình tượng hóa dượng Bảy. Thế nhưng người thầm lặng nhất vẫn là dì Bảy: người phụ nữ ấy suốt hai mươi năm qua lặng lẽ đợi chồng, để giờ đây nén lại đau thương lập bàn thờ cho chồng.

Hạnh phúc trong một tháng nhưng với dì Bảy có lẽ là duyên nợ cả đời – dì ở vậy. Có người đàn ông ưng dì, mặc dù dì đã ngoài bốn mươi. Dì ở vậy với mẹ già tới khi bà mất. Dì vẫn ngồi trước hiên vào mỗi buổi chiều để chờ đợi. Một sự khắc khoải đến đau lòng. Đọc đến đây, ta không khỏi liên tưởng tới hình ảnh kẻ chinh phụ đợi người chinh phu trong thơ cổ. Hay nàng Tô Thị ôm con chờ chồng hóa đá vọng phu…

Đến cuối tản văn ta mới biết được tên gọi của người phụ nữ tên thật là Lê Thị Thỏa – một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Việc giới thiệu tên gọi địa chỉ của dì Bảy khiến ta càng thêm trân trọng sự hi sinh vĩ đại của người phụ nữ Việt. Trải qua chiến tranh có biết bao thế hệ thanh niên lên đường nhập ngũ bảo vệ Tổ quốc. Nhiều người vĩnh viễn nằm lại chiến trường, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng bạn bè, người thân. Người mất là sự hi sinh vĩnh viễn nhưng đau xót hơn là người ở lại cùng nỗi trống vắng, cô đơn dài dằng dặc của thiếu phụ thờ chồng.

Tản văn mượn hình ảnh người phụ nữ ngồi đợi trước hiên để nói về sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ trong chiến tranh.

Tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà mang kết cấu hết sức tự do, với ngôn ngữ bình dân tự nhiên, chân thật gần gũi đã tác động đến cảm xúc của độc giả, tạo nên giá tri nhân văn sâu sắc.

Bài giải tiếp theo