Dương phụ hành
Dương phụ hành bao gồm tóm tắt nội dung chính, lập dàn ý phân tích, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cùng hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm và tiểu sử, quan điểm cùng sự nghiệp sáng tác phong cách nghệ thuật giúp các em học tốt môn văn 11
Tác giả
Tác giả Cao Bá Quát
1. Tiểu sử
- Cao Bá Quát ( 1809 – 1855 ) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mẫn Hiên, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội).
- Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt.
- Khoảng tháng 6, tháng 7 âm lịch năm Giáp Dần 1854, nhiều tỉnh ở miền Bắc gặp đại hạn, lại bị nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người nhân dân hết sức cực khổ; Cao Bá Quát bèn vận động một số sĩ phu yêu nước, các thổ hào ở các vùng Quốc Oai, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Lạng Sơn... cùng nhau tôn Lê Duy Cự làm minh chủ chống lại nhà Nguyễn.
- Cao Bá Quát làm quốc sư, họp với thổ mục Sơn Tây là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Trân dựng cờ nổi dậy tại Mỹ Lương, thuộc vùng Sơn Tây chống lại triều đình đương thời.
- Đang trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, do có người tố giác nên kế hoạch bị bại lộ. Trước tình thế cấp bách, Cao Bá Quát buộc phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854.
- Tuy giành được một số thắng lợi, nhưng sau khi quan quân triều đình tập trung phản công thì quân khởi nghĩa liên tiếp bị thất bại.
- Ông đã mất trong cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ phong kiến nhà Nguyễn.
2. Sự nghiệp văn học
- Cao Bá Quát là một nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, được người đương thời tôn là Thánh Quát (“Thần Siêu, Thánh Quát”).
- Thơ văn ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ảnh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.
- Ngay sau khi cuộc nổi dậy ở Mỹ Lương (tỉnh Sơn Tây) bị thất bại (1855-1856), các tác phẩm của Cao Bá Quát đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít.
- Một số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.- Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ.
- Về chữ Nôm, có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các tập:Cao Bá Quát thi tập, Cao Chu Thần di thảo, Cao Chu Thần thi tập, Mẫn Hiên thi tập.
Tác phẩm
Tác phẩm Dương phụ hành
1.Tìm hiểu chung
- “Dương phụ hành” được viết vào thời gian từ 1842 – 1843, khi Cao Bá Quát đi “dương trình hiệu lực” sang In đô nê xia.
- Bài thơ nói về người thiếu phụ Tây Phương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt.
2. Tìm hiểu chi tiết
- Khung cảnh. Một đêm trăng trên đại dương. Gió bể thổi lạnh.
- Trang phục. Áo trắng phau như tuyết (y như tuyết). Một vẻ đẹp trắng trong. Nhà thơ ngạc nhiên lần đầu thấy, nhiều xúc động.
- Cử chỉ ngôn ngữ. Nàng nhìn sang thuyền người Nam, thấy đèn lửa sáng (đăng hoả minh), tựa vai chồng, kéo áo chồng, nói rầm rì... Trễn tay nàng "hững hờ cốc sữa biếng cầm tay”. Lạ nhất là cử chỉ "uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”. Nũng nịu và yêu thương. Nàng đang sống trong sum họp và hạnh phúc lứa đôi. Trong bản chữ Hán, từ "lang” (chồng, chàng) được nhắc lại 3 lần ở các câu 2, 4, 7. Màu trắng của áo, màu xanh của trăng (thanh nguyệt) màu sáng của lửa đèn, và cái lạnh của gió biển đêm đại dương – tất cả góp phần đặc tả nhan sắc, tâm hồn và hạnh phúc của người thiếu phụ phương Tây.
- Ngôn ngữ và cách tả cho thấy một cái nhìn ngạc nhiên, một thái độ trân trọng đối với con người Châu Âu với một nền văn minh xa lạ, lần đầu tác giả tiếp xúc. Thơ trung đại thường nói đến giai nhân là nói đến mệnh bạc; trong bài thơ này, tác giả tả giai nhân trong hạnh phúc sum họp lứa đôi. Ý tứ ấy rất mới lạ.
- Tâm trạng nhà thơ:
+ Câu 6, tả bể đêm sương lạnh. Đó là một nét vẽ góp phần làm cho nỗi đau của khách biệt ly thêm cô đơn và tê tái, lạnh lẽo.
+ Câu 8 tương phản với 7 câu trước. Nhà thơ hỏi (tự nói với mình) "Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt ly?”. Người thì hạnh phúc sum họp, còn nhà thơ thì đang sống trong nỗi đau buồn và cỗ đơn của cảnh biệt ly. Nỗi đau càng được nhân lên nhiều lần trong cảnh ngộ phải đi "dương trình hiệu lực”, tài năng bị dập vùi, công danh bị dở dang, một kẻ sĩ trải qua nhiều cay đắng trên con đường hoan lộ.
→ Chỉ một câu thơ mà nói được bao điều tâm sự. Thật hàm súc và truyền cảm.
Kết luận
- Bài thơ được viết theo thể "hành” thất ngôn. Ý tại ngôn ngoại. Một cái nhìn mới mẻ. Ý thơ mới lạ.
- Hình ảnh người thiếu phụ Tây Dương và nỗi buồn đau của khách biết ly là hai nét vẽ đầy ấn tượng.
Search google: "từ khóa + timdapan.com" Ví dụ: "Dương phụ hành timdapan.com"