Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2023

Bùi Thế Hiển
Admin 25 Tháng ba, 2023

Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kèm theo liên hệ bản thân là bài văn mẫu dự thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Bài thu hoạch học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh năm 2023 này được tổng hợp sau một thời gian vận động trong doanh nghiệp, nhà trường về việc thực hiện quản lý và lối sống theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Mời các bạn cùng đọc và tham khảo bài kế hoạch cá nhân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách hồ chí minh rồi viết bài thu hoạch chủ đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo ý tưởng của mình.

1. Bài thu hoạch chuyên đề năm 2023

Câu 1: Chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp về xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong giai đoạn hiện nay.

Thứ nhất: Chủ trương của Đảng về xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân:

  • Quán triệt sâu sắc tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lực lượng dân to việc dân vận quan trọng, dân vận việc dân khéo việc thành công”. Cách mạng nghiệp nhân dân, nhân dân, nhân dân; Nhân dân chủ, Nhân dân làm chủ; tin tưởng trí tuệ Nhân dân, tin vào sức mạnh lực lượng Nhân dân để làm cách mạng.
  • Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đội ngũ cán bộ, đảng viên.
  • Xây dựng tổ chức thực hiện có hiệu quả, phát huy vai trò Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
  • Xây dựng đội ngũ đảng viên thật tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, có lĩnh trị, phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật lực hoàn thành nhiệm vụ, vững vàng trước khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng Đảng.
  • Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết Đảng với Nhân dân; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng Nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng đắng, kịp thời.
  • Củng cố vững niềm tin Nhân dân Đảng, tăng cường khối đại đoạn kết toàn dân tộc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; tập hợp, vận động Nhân dân thực tốt chủ trương Đảng sách, pháp luật Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn Nhân dân, tạo thành phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
  • Đổi phương thức lãnh đạo Đảng công tác dân vận điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế.

Thứ hai: Phát huy dân chủ

  • Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương Đảng, sách, pháp luật Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi ích chính đáng của nhân dân, nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
  • Thể chế hóa nâng cao chất lượng hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền người, quyền nghĩa vụ công dân.
  • Để thực hiện dân chủ xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ xã hội. Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo Mặt trận Tổ quốc đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt quy chế giám sát phản biện xã hội; quy định việc Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị – xã hội nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng quyền; quy định giám sát đảng viên cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý quy định, quy chế khác.
  • Các cấp, ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải đáp những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giai cấp, tầng lớp xã hội, vùng miền, lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể cộng đồng, xã hội. Xử lý nghiêm minh vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, kéo dài.
  • Phát huy dân chủ phải gắn liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương đề cao đạo đức xã hội. Phê phán biển dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng dân chủ để làm an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội hành vi vi phạm quyền dân chủ quyền làm chủ của nhân dân.

Thứ ba: Chăm lo đời sống cho Nhân dân

  • Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích; quyền lợi phải đi với nghĩa vụ công dân; trọng lợi ích trực tiếp người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; có lợi cho dân làm, có hại cho dân tránh.
  • Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội. Mở rộng đối tượng nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã hội đến người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ tổn thương người gặp rủi ro sống.

Câu 2: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, cán bộ, đảng viên.

Thứ nhất: Phong cách dân chủ, quần chúng

Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. Một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”. Nói về sức mạnh của dân chủ, Người từng nói: “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối quan chủ” là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”.

Phong cách dân chủ yêu cầu người cán bộ, đảng viên phải sâu sát quần chúng, chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của quần chúng, quan tâm đến mọi mặt đời sống nhân dân; tin yêu và tôn trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết điểm của mình.

Phong cách quần chúng của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ trong các thói quen sinh hoạt hàng ngày. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oan tín, giữ được thể diện”. Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công”.

Thứ hai: Phong cách khoa học

Theo Người, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh như thế nào,…

Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Bác từng nói: thời giờ cũng cần phải tiết kiệm như của cải, của cải hết còn có thể làm thêm khi thời gian đã qua rồi không bao giờ kéo lại được… Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc;”.

Thứ ba: Phong cách nêu gương

Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải noi gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương cho anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”.

Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung cơ bản không thể thiếu trong phong cách làm việc và nhân cách của những người lãnh đạo, quản lý. Trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn tất cả cán bộ, đảng viên: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.”

Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hàng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.

Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải luôn xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm.

Câu 3: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ nhất: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc đoàn kết không chỉ tạo nên sức mạnh mà còn là vấn đề có ý nghĩa quyết định tới việc sống còn, thành bại, được mất trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù. “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”. Theo Bác, đoàn kết trong Đảng là tiền đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở để đoàn kết quốc tế.

Thứ hai: Lực lượng và hình thức tổ chức đại đoàn kết toàn dân tộc

Với chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở thống nhất lợi ích quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giả cấp và tầng lớp; nòng cốt khối đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo Bác cần giải quyết hài hòa lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, dân cư ở các vùng miền khác nhau. Phát huy mặt tương đồng, hóa giải điểm khác biệt.

Thứ ba: Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc

Khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấo công nhân để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp – dân tộc:

  • Tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân, phát động các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu.
  • Đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.
  • Đoàn kết trêm cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình.
  • Đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.

Thứ tư: Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động, quyền lợi của nhân dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp với từng đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.

Phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại đoàn kết, thống nhất từ tư tưởng đến hành động, có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh, thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với nhân dân. Mặc trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ ràng; hình thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, các ngành, các giới, các dân tộc, tôn giáo,… Để toàn dân tộc có thể tham gia xây dựng và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Thứ năm: Đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc và là đức tính cơ bản của người cách mạng

Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước và giữ nước, theo Người: mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đoàn kết là một đức tính cơ bản của người cách mạng. Ai không có khả năng tập hợp, đoàn kết quần chúng và các đồng chí của mình thì không thể làm cách mạng, không thể làm cán bộ.

Đối với toàn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo. Để đoàn kết nhất trí, cán bộ lãnh đạo phải cần kiệm, liêm, chính; kiên quyết chống quan liêu, tham ô, lãng phí; hết lòng hết dạ phục vụ nhân dân; chấp hành nghiêm chỉnh chính sách của Chính phủ và pháp luật của Nhà nước.

Đối với toàn thể nhân dân Việt Nam, Người kêu gọi “tất cả dân ta đều thi đua: cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích: “chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn”.

Thứ sáu: Phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời kiên tâm thực hiện đại đoàn kết. Bản thân Người cũng chính là hình ảnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người, để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc thì toàn Đảng cũng như mỗi cán bộ, đảng viên cần có phong cách lãnh đạo: “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.”

Đối với cán bộ lãnh đạo, đảng viên, cần học và làm theo phong cách làm việc quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tập hợp, đoàn kết toàn dân. Chú ý tìm hiểu tâm tư nguyện cọng của quần chúng, chăm lo đời sống của nhân dân. Tin vào dân, tôn trọng dân, chú ý lắng nghe và giải quyết những kiến nghị chính đáng của nhân dân sẵn sàng tiếp thu ý kiến dân phê bình và kịp thời sửa chữa những khuyết điểm, thiếu sót.

2. Bài thu hoạch chuyên đề học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2023

BÀI THU HOẠCH

Chuyên đề “Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân”

Họ tên: …

Chức danh, chức vụ: …

Đơn vị công tác: …

Ngày … tháng … năm …

Học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh xây dựng phong cách, tác phong công tác người đứng đầu, cán bộ, đảng viên

Qua học tập nghiên cứu chuyên đề xây dựng phong cách tác phong công tác người đứng đầu cán đảng viên tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tôi xin trình bày như sau:

I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ TƠN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN

Về tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo cho đời sống nhân dân

Thứ nhất về mặt tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống của nhân dân, phải có thái độ coi trọng vai trò, địa vị của nhân dân.

- Theo Bác, muốn thực sự tôn trọng dân thì phải hiểu dân, trọng dân, trọng dân, trọng dân, quyền lợi của dân, của lòng dân, trí tuệ của họ, tâm huyết của họ, chủ nghĩa anh hùng của họ, tạo nên cái gốc của dân. người dân. Tôn trọng ý thức của người dân, đồng thời tôn trọng thái độ của người dân, chúng ta cũng phải chú ý không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, không xúc phạm người dân. Luôn tôn trọng và bảo vệ tài sản của công và nhân dân.

- Thúc đẩy dân chủ và tôn trọng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao vai trò của nhân dân, nhấn mạnh vai trò của Đảng, Nhà nước có trách nhiệm phát huy nhân dân làm chủ nước nhà, trao quyền cho nhân dân được thụ hưởng, nắm bắt và sử dụng các quyền dân chủ, dám nói và dám làm. hành động. Dân chủ được giải thích ngắn gọn bởi những người tạo ra nó. Trong một nước dân chủ, dân là thượng tôn, dân là quý nhất, dân là nước mạnh.

- Dân chủ được Bác Hồ giải thích ngắn gọn là do dân làm chủ. Trong một nước dân chủ, dân là thượng tôn, dân là quý nhất, dân mạnh là nước mạnh. Thực hiện dân chủ, phát huy nhân tài. Muốn vậy, chúng ta phải ra sức lãnh đạo nhân dân bằng cách nghe dân nói, biết dân, học dân, gặp dân, hỏi dân, thương dân. Hồ Chí Minh nói: “Không học dân thì không lãnh đạo được dân, phải biết làm học trò của dân, làm thầy của dân.

- Theo quan điểm của Bác, muốn có sức dân, lòng dân thì trước hết phải quan tâm đến dân sinh. Cách đây không lâu, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến “việc của dân là trên hết”. Trong di chúc, Người căn dặn: “Đảng phải có kế sách tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

- Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chăm lo tới đời sống của dân. Người nói: “Tôi có một ước nguyện, một ước nguyện là nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta có cơm ăn áo mặc, đồng bào ta được học hành, nhân dân ta hoàn toàn tự do.

Thứ hai, sự coi trọng đạo đức của Hồ Chí Minh đối với nhân dân thể hiện nổi bật ở sự thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.

- Cần phát huy cao độ ý thức tôn trọng nhân dân ở mức độ đạo đức, tôn trọng nhân dân và bảo vệ nhân dân. Tôn trọng nhân dân, đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền với ý dân và sức dân, “Dễ mười lần dân chịu, khó trăm lần dân làm”. Vì vậy, “Việc nước vì dân, chớ làm việc gì trái ý dân, việc dân muốn gì mình cũng phải làm”. Người yêu cầu đảng viên, cán bộ phải hết lòng phục vụ nhân dân, kính dân, yêu dân.

– Quy tắc đạo đức chăm lo đời sống nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện rõ quan điểm của Người: Hết lòng phục vụ nhân dân, quan tâm đến đời sống của nhân dân là sứ mệnh cả đời của Đảng ta. .Chúng ta phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm giàu và mạnh Tổ quốc, làm lợi cho đồng bào. Tóm lại, đạo đức cách mạng là: đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ ba, phong cách tôn trọng nhân dân của Hồ Chí Minh tự nhiên xuất phát từ cuộc đời, nhân cách, tấm lòng, đức độ vì nước, vì dân của Người. Phong cách tôn trọng nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện trên nhiều mặt, Hồ Chí Minh có cách giao tiếp hoàn toàn mới giữa lãnh đạo với nhân dân, với thái độ yêu nước, kính dân, trọng dân.

- Để thực hành phong cách dân chủ, chúng ta phải biết: "Nhân dân nói mười điều, chỉ có mấy điều xây dựng, như thế vẫn giá trị và hữu ích. Uy tín của người lãnh đạo là ở chỗ dám tự phê bình, biết rút kinh nghiệm", biết học hỏi từ quần chúng, sửa sai. Muốn tiến bộ công tác không phải là giấu giếm khuyết điểm, sợ quần chúng phê bình.” Người chỉ rõ: “Muốn công khai ưu điểm, nhược điểm, điều quan trọng là quần chúng phải dân biết nhiều điều mà lãnh đạo không biết. Việc gì cũng phải bàn bạc với dân; dân sẽ có ý kiến ​​hay."

Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng nhân dân, thực hiện dân chủ, quan tâm đến đời sống của nhân dân

- Phong cách kính dân của Hồ Chí Minh tự nhiên xuất phát từ nhân cách, cuộc đời, tấm lòng và đức độ vì nước, vì dân của Người. Hồ Chí Minh sinh ra là của dân, hết lòng sống với dân, cuối đời Người muốn về với dân, xây ngôi nhà nhỏ với núi xanh nước xanh, câu cá, trồng hoa, kết bạn buổi chiều ông lão kiếm củi, con trai con gái chăn bò, không màng danh lợi. Người ta thường nói trên đời không có nhân dân thì không có Bác Hồ, trái tim Bác như loạn nhịp, tâm hồn Bác biết chạnh lòng trước cảnh ngộ của nhân dân. Nhân cách vĩ đại và cuộc đời vẻ vang của Hồ Chí Minh đã tạo nên phong cách tôn trọng nhân dân của Người.

- Phong cách phát huy dân chủ của Hồ Chí Minh xuất phát từ tôn trọng nhân dân, bảo vệ vai trò và địa vị của nhân dân.

- Phong cách tôn trọng nhân dân của Bác thể hiện qua nhiều cách. Bác luôn chú ý lắng nghe ý kiến của dân, sẵn sàng tiếp thu phê bình của nhân dân để sửa đổi.

II. CHỦ TRƯƠNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG Ý THỨC TÔN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

a) Chủ trương Đảng

Đảng ta đưa ra hai chủ trương chính đó là:

  • Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân
  • Phát huy dân chủ
  • Chăm lo đời sống cho nhân dân

b) Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề trên:

- Xây dựng chương trình, kế hoạch tạo ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống của nhân dân, coi nhiệm vụ quan trọng nhất và nguồn lực để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với các đảng phái, tổ chức nhân quyền, tổ chức chính trị - xã hội

- Mặt trận Tổ quốc: - Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của nước ta, “dân là trọng tâm”.

- Tập trung thực hiện quy chế hành chính dân chủ, tạo điều kiện tốt để nhân dân tự sản xuất, kinh doanh theo pháp luật, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

3. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2022

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ Ý CHÍ TỰ LỰC, TỰ CƯỜNG VÀ KHÁT VỌNG XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Thứ nhất, về ý chí tự lực, tự cường.

Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”(1).

Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.

Trong tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927), Người viết: “Chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”(2). Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” nhưng “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới”. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(3).

Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng .
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện trước hết là phải có một Đảng cách mệnh, “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”(4).

Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, thực hiện mục tiêu chiến lược: “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(5).

Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. Tại Hội nghị Trung ương 8, Người cùng Trung ương Đảng quyết định những vấn đề lớn của cách mạng như hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, xử lý đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc.

Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “nhân dân” là phạm trù cao quý nhất. Người nói: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Người khẳng định, dân khí mạnh thì binh lính nào, súng ống nào cũng không địch nổi. “Nếu lãnh đạo khéo thì việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được”(7).

Trong Thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người nêu rõ: “Hỡi đồng bào yêu quý! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(8). Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(9).

Trong Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nêu rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(10).

Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyết tâm bảo vệ và giữ vững độc lập dân tộc, “nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập tự do”, thể hiện rất rõ khi Tổ quốc bị lâm nguy, khi dân tộc phải đương đầu với những kẻ thù có sức mạnh kinh tế - quân sự vào hàng cường quốc thế giới, chống lại âm mưu áp đặt chế độ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc thực dân.

Ngay sau khi nền độc lập ra đời, đất nước ta đã phải chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(11).

Thứ hai, về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Một là, xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(12). Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”(13). Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(14).

Hai là, thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(15). Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng, chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân.

Ba là, xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

Ngay trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/1/1946, Hồ Chí Minh phát biểu mong muốn mọi người đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành.

Bốn là, phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài.

Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Hồ Chí Minh cho rằng, việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân.

Năm là, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(16). Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta(17).

HỌC VÀ LÀM THEO BÁC, XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là thực tiễn 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã thể hiện một cách sinh động ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc ta. Đại hội XIII của Đảng đã xác định các quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới hiện nay, trong đó nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hoá, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(18).

Trên tinh thần đó, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng cống hiến, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nhiệm vụ cách mạng trong các giai đoạn lịch sử.

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên, cần thực hiện đồng bộ 8 giải pháp chủ yếu sau:

Một là, cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Học tập và làm theo Bác để Đảng ta và mỗi đảng viên xứng đáng với vai trò, sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam và sự tin cậy của nhân dân.

Hai là, các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị . Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội. Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành, nhằm lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”, thực hiện có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn là, nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương sáng, hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng, toàn Đảng ta sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và xã hội.

Năm là, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, nêu cao bản lĩnh chính trị, đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.

Sáu là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng. Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới.

Bảy là, nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tám là, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2022 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả thực chất. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện nêu gương./.

___

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2011, t.1, tr. 209.

(2) (3) (4) Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 283, 320, 289.

(5) (8) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr.1, 596.

(6) (16) Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr.453, 391.

(7) Hồ Chí Minh: Sđd, t.12, tr. 492.

(9) (11) (12) (13) (15) Hồ Chí Minh: Sđd, t.4, tr. 534, 534, 64, 40, 187.

(10) (14) Hồ Chí Minh: Sđd, t.15, tr.131, 624.

(17) Hồ Chí Minh: Sđd, t.11, tr.92.

(18) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2022, t.1, tr.110.

4. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2021

Qua học tập tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chuyên đề năm 2016 về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh", tôi xin trình bày những nhận thức của mình về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh"; tự liên hệ bản thân về chủ đề "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân, đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH"

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm

1.1. Về trung thực,"nói thì phải làm"

Trung thực là một phẩm chất đạo đức, thể hiện sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm; giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Trong quan hệ giữa người với người, Hồ Chí Minh coi trung thực là nói đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm là nguyên tắc thực hành đạo đức, là phương châm hoạt động, là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động trong một con người.

Trung thực trước hết là với Đảng với cách mạng. Xây dựng, rèn luyện bản lĩnh vững vàng, có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, thì dù phải trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, vẫn luôn luôn trung thực với mình, trung thành với Đảng, với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vì tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Phải nói và làm đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chống chủ nghĩa cá nhân, không được vì lợi ích cá nhân mà xuyên tạc, nói sai, làm sai. Nắm vững mục tiêu lý tưởng của Đảng và được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong từng giai đoạn để thực hiện cho đúng, để tuyên truyền, giáo dục, vận động nhân dân làm theo cho đúng.

Trung thực, thống nhất giữa lời nói và việc làm, "không được nói một đàng, làm một nẻo" là sự thể hiện sự trung thực với chính mình. Nếu chính mình tham ô mà bảo người khác liêm khiết thì không được và là sự giả dối. Nếu kêu gọi mọi người cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, mà bản thân mình lại lười biếng, không cần, kiệm, không hoàn thành những công việc được giao, luôn tìm cách tham ô tiền của Nhà nước và nhân dân, sống hoang phí, xa hoa..., là giả dối, không trung thực.

Đối với chính mình, phải đúng mực với người khác, không được "hứa mà không làm". Mỗi cán bộ, đảng viên "Nói ít, bắt đầu bằng hành động"; "tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước". Cán bộ, đảng viên "cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh... phải thật thà nhúng tay vào việc".

Đối với Đảng, phải luôn luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để hoàn thành trách nhiệm, lời hứa trước nhân dân. Khi mắc sai lầm, khuyết điểm thì dũng cảm nhận lỗi trước dân và kiên quyết dựa vào dân để sửa chữa khuyết điểm.

1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về trách nhiệm

Trách nhiệm là việc phải làm không thể thoái thác, dù ở cương vị nào, to hay nhỏ, lớn hay bé, mỗi người đều có 'bổn phận". Ý thức trách nhiệm là tự ý thức được về các công việc phải làm, "nhận rõ phải, trái, đúng sai", tự mình xác định việc cần làm. Trên cơ sở có ý thức đúng đắn, tự giác, tích cực thực hiện trách nhiệm của mình là "có tinh thần trách nhiệm cao".

Trước hết là trách nhiệm với Tổ quốc. Theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên, công chức luôn có trách nhiệm thiêng liêng, cao cả đối với Tổ quốc, với sự sống còn của quốc gia, dân tộc. Trách nhiệm ấy được thể hiện ở tinh thần đấu tranh quên mình cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước; phấn đấu cho đất nước giàu mạnh, phấn đấu cho CNXH.

Trách nhiệm đối với nhân dân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức với nhân dân được bắt nguồn từ nguyên lý: "Nước lấy dân làm gốc", "Sự nghiệp cách mạng là do nhân dân tiến hành", "Nhân dân là người làm ra lịch sử"... Cán bộ, đảng viên, công chức phải "hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân". Để làm được việc đó, cán bộ, đảng viên công chức còn phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi các đường lối, chính sách ấy, Người chỉ rõ: "Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành". Cán bộ, đảng viên, công chức phải sâu sát, gần gũi quần chúng, chăm lo giúp đỡ quần chúng về mọi mặt; phải "trọng dân, sát dân, tin dân", phấn đấu sao cho "dân phục, dân tin, dân yêu"; phải "... lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, "việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng... Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết".

Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là phải nêu gương trước quần chúng về mọi mặt. Sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên có vai trò rất to lớn để biến đường lối, chủ trương của Đảng thành hiện thực. "Người đảng viên - dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp - ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng... Muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói đến cách ăn ở đều phải gương mẫu"; phải kính trọng dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tuyệt đối không được có thái độ "vác mặt làm quan cách mạng", không được hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân.

Trách nhiệm đối với Đảng. Tất cả đảng viên phải kiên định với tôn chỉ, mục đích, mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đảng viên phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương, nghị quyết do Đảng đề ra; thực hiện tốt các nhiệm vụ của người đảng viên; chấp hành nghiêm Điều lệ, kỷ luật Đảng; tích cực tham gia xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh; luôn giữ vững tính tiền phong, gương mẫu của người đảng viên. Mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin để nâng cao trình độ giác ngộ, để hăng hái đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình.

Trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương

Là một thành viên của xã hội, của tổ chức, mỗi người giữ một vị trí xã hội nhất định, hoạt động trong một lĩnh vực nhất định và thực hiện một công việc nhất định. Do vậy, hoàn thành nhiệm vụ được giao là kết quả thực hiện tốt trách nhiệm với bản thân, gia đình, quê hương. Cán bộ, đảng viên, công chức phải chăm lo xây dựng gia đình, dòng họ, quê hương... Phải giáo dục cho các thế hệ trong gia đình, dòng họ về lòng yêu nước, về trách nhiệm xã hội, về ý chí vươn lên trong học tập và công tác, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, tất cả đảng viên phải quan tâm giáo dục cho con cháu về đạo đức, lối sống lành mạnh, nhất là tinh thần cần kiệm, liêm chính, lòng nhân ái, tình đoàn kết cộng đồng; biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ, quê hương và của toàn dân tộc.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân

Theo Hồ Chí Minh nhân dân là nguồn gốc của mọi sức mạnh. Người viết: "...Trong bầu trời không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". "Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người". Khi nói về thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945, Hồ Chí Minh nói: "Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết..., "Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân.

Để gắn bó với dân, giữ vững mối liên hệ giữa cán bộ, đảng viên và nhân dân, Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải:

- "Nhận rõ phải, trái. Giữ gìn lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không".

+ Cán bộ của Đảng, Nhà nước "cần phải xung phong, gương mẫu trong sản xuất và trong công tác, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính".

+ Với mỗi đảng viên "Bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải kiên quyết chống lại chủ nghĩa cá nhân";

"...Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu lợi ích của Đảng và lợi ích cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích Đảng".

+ "Cán bộ đảng viên phải nâng cao tinh thần phụ trách trước Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Phải kính yêu nhân dân. Phải tôn trọng thật sự quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được "kiêu ngạo, công thần, tự cao, tự đại"... Người dạy: "Cơm của chúng ta ăn, áo của chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng đều là mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền ơn xứng đáng cho nhân dân. Chớ vác mặt làm quan cách mạng để dân ghét, dân khinh, dân không ủng hộ".

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết

Tư tưởng đoàn kết nổi bật của Người là: "Đoàn kết làm ra sức mạnh", "Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta"; "Đoàn kết là thắng lợi"; " Đoàn kết là then chốt của thành công". "Đoàn kết" là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công".

Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng; phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ trương của của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong mọi giai đoạn cách mạng. Đại đoàn kết toàn dân là mục đích phấn đấu của Đảng Cộng sản, "Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm 8 chữ là " đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Khái niệm dân, nhân dân, đồng bào là một tập hợp đông đảo quần chúng, là "mọi con dân nước Việt","mỗi một người con Rồng cháu Tiên", không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, "già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, quý tiện". Hồ Chí Minh nhiều lần nêu rõ: "Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ".

Đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng của khối liên minh công nông, tập hợp trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh viết "Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất". Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.

Đoàn kết toàn dân là đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Người nêu rõ: "Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân.. .; phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ; phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc.. .; phải đoàn kết chặt chẽ đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận, ấm no, xây dựng Tổ quốc". "Đoàn kết thật sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau, phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân".

Đảng Cộng sản vừa là thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, có trách nhiệm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Vì vậy, "đại đoàn kết dân tộc.. . thành vấn đề máu thịt của Đảng". Muốn quy tụ được cả dân tộc, Đảng phải: "Vừa là đạo đức, vừa là văn minh"; "Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí"; "được nhân dân thừa nhận". Người viết: "Đảng không thể thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo".

3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

3.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng

Theo Hồ Chí Minh, vai trò của Đảng chính trị không chỉ trong cuộc đấu tranh giai cấp mà cả trong đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng. Người luôn khẳng định, trong sự nghiệp đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn đòi hỏi một Đảng trong sạch, vững mạnh, có tầm cao trí tuệ, sức chiến đấu, gắn bó với nhân dân, đủ năng lực lãnh đạo nhân dân trong mọi giai đoạn của cách mạng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng tập trung vào những điểm chủ yếu sau:

Một là, cách mạng cần có Đảng. Cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi "trước hết phải có đảng cách mệnh". "Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt". "Chủ nghĩa" mà Người đề cập ở đây là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hai là, xây dựng Đảng là phải thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Vận dụng và phát triển những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng vô sản kiểu mới do V.I.Lênin đề ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu các nguyên tắc chủ yếu là: Nguyên tắc tập trung dân chủ; Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; Nguyên tắc tự phê bình và phê bình; Kỷ luật nghiêm minh, tự giác.

Ba là, quan tâm xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đức, có tài để Đảng xứng đáng "là đạo đức, là văn minh".

Đây là sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Để đảng thực sự"là đạo đức, là văn minh" phải quan tâm xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có phẩm chất, tư cách và năng lực hoạt động.

Bốn là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với dân, vì "Đảng là con nòi của dân tộc"; mục đích của Đảng là "Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc". Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mỗi đảng viên phải bằng hành động thực tế của mình để có niềm tin yêu của nhân dân, chứ không phải "dán lên trán hai chữ cộng sản" là được dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục. Đảng thường xuyên lắng nghe ý kiến của nhân dân, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; tổ chức và vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đảng phải nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với dân; phải "...không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".

Năm là, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Trong điều kiện cách mạng chuyển sang giai đoạn mới càng cần quan tâm đến công tác xây dựng Đảng; "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng..."

3.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong công tác xây dựng Đảng

Trong công tác xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của đoàn kết. Nội dung đoàn kết xây dựng Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh tập trung lại gồm các điểm sau:

  • Vấn đề đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trước hết là do sự đoàn kết trong Đảng đem lại, bởi từ đoàn kết trong Đảng dẫn tới đại đoàn kết toàn dân. Người viết: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ" mà "Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác".
  • Đoàn kết là là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Khi đã trở thành truyền thống thì mọi thế hệ cách mạng đều phải có trách nhiệm duy trì và bảo vệ, Người nói "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".
  • Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là dân chủ và phê bình, tự phê bình, "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình", đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
  • Để đoàn kết, không chỉ là thực hiện nguyên tắc, bản lĩnh, lý trí mà rất cần cả tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau, "trong Đảng phải có tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau".
  • Trong điều kiện đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh yếu tố đạo đức của Đảng, chống lại các căn bệnh "quan liêu", "tham nhũng, lãng phí", "xa dân". Theo Người, đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, một "cuộc chiến đấu khổng lồ, xóa đi những gì cũ kỹ hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi". Để hoàn thành sứ mạng đó, Đảng ta phải "là đạo đức, là văn minh". Người nói "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân".

II. NHẬN THỨC VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM; GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT, XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH" THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1. Về trung thực, trách nhiệm

  • Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về "trung thực, trách nhiệm là yêu cầu chung trong các giai đoạn phát triển của cách mạng. Đó là sự phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đoàn kết gắn bó, có trách nhiệm với mình với quê hương, đất nước. Trong lịch sử dân tộc, các quan niệm "đói cho sạch, rách cho thơm", "thật thà, trung thực", "không tham của người khác", "cứu người như cứu mình"... đã chi phối đời sống cộng đồng các dân tộc trải qua hàng ngàn năm lịch sử, là cơ sở nuôi dưỡng khối đoàn kết, tình nhân ái trong xã hội.
  • Dưới ảnh hưởng của truyền thống dân tộc và những quan niệm tốt dẹp của Nho giáo, Phật giáo, người Việt Nam luôn có ý thức trách nhiệm với mình, với cộng đồng và xã hội. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực và trách nhiệm là giữ gìn, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; là nhiệm vụ của tất cả mọi người dân Việt Nam. Phát huy truyền thống trung thực, trách nhiệm trong mỗi người Việt Nam hiện nay là để góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, tinh thần, văn hóa của xã hội mới, nhắm tới mục tiêu xã hội "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã khẳng định vị trí vai trò của việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội bên cạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội mới. Đảng đã xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và phát triển văn hóa, xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội có vai trò quan trọng. Duy trì và phát huy truyền thống đạo đức trung thực, trách nhiệm là yêu cầu của việc xây dựng xã hội mới.
  • Trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta cần phải khắc phục sự tác động tiêu cực của nền kinh tế sản xuất nhỏ, tiểu tư hữu, cơ sở để nảy sinh sự gian dối, làm hàng giả ... ; trong lĩnh vực xã hội là sự thiếu trung thực, nói dối, nói một đằng, làm một nẻo, cơ hội chủ nghĩa... Những tệ nạn xã hội này càng dễ phát triển trong cơ chế thị trường chưa được hoàn thiện, khi quản lý nhà nước còn lỏng lẻo trên nhiều lĩnh vực... Chủ nghĩa cá nhân theo đó có cơ hội phát triển. Việc lợi dụng chức quyền, tham nhũng dễ nảy sinh; tệ nói dối, làm hàng giả, ăn cắp... "trở nên bình thường" và không còn cảm thấy xấu hổ... Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đã xác định các nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, xây dựng nhân cách con người, trong đó có phẩm chất trung thực và trách nhiệm.
  • Yêu cầu của việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm là mỗi người Việt Nam cần xây dựng lối sống trung thực, trước hết là trung thực với chính mình, với gia đình, người thân, trung thực với bạn bè, đồng chí, tổ chức và nhân dân. Khắc phục tệ nói dối trong tổ chức và xã hội đã đến mức như thói quen; loại trừ thói ích kỷ, tham lam, tranh cướp, hôi của khi người khác gặp hoạn nạn; tệ làm hàng giả, bằng giả, gian manh, lừa dối trên thương trường, trong quan hệ xã hội,... Đó là cơ sở để xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh, hạnh phúc, bởi không có xã hội hạnh phúc khi không có các gia đình hạnh phúc, con người hạnh phúc. Mà một gia đình không thể hạnh phúc khi mọi thành viên trong gia đình sống không trung thực...
  • Trung thực đi liền với trách nhiệm. Mỗi người trong xã hội đều có những trách nhiệm, với những biểu hiện cụ thể nhất định. Người có cương vị càng lớn càng có trách nhiệm cao. Đã trung thực với chính mình thì không bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình. Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong xã hội ta hiện nay.

2. Về gắn bó với Nhân dân

  • Trách nhiệm gắn bó với Nhân dân trước hết thuộc về cán bộ, đảng viên của Đảng, công chức của Nhà nước, những người có nhiệm vụ phục vụ nhân dân. Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với thắng lợi của cách mạng, Người thường nhắc câu "Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong". Trách nhiệm gắn bó với nhân dân của cán bộ, đảng viên, công chức là để phục vụ nhân dân, huy động sức mạnh trong nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Gắn bó với nhân dân còn là đạo lý của người cán bộ công chức, bởi "cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc" do nhân dân cung cấp; tiền lương chúng ta nhận, phương tiện chúng ta làm việc là từ tiền thuế của dân. Thực hiện gắn bó với nhân dân, bắt đầu từ mực tiêu phục vụ nhân dân là quay về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị.
  • Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về gắn bó với nhân dân là phát huy bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh từng dạy "Gốc có vững, cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền Nhân dân". Bài học có dân là có tất cả không chỉ đúng trong những năm "nếm mật nằm gai", dựa vào dân để xây dựng phong trào trong đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền, mà ngày nay càng chứng minh sự đúng đắn của nó. Trong xây dựng kinh tế, không xuất phát từ lợi ích của dân, các chủ trương, chính sách mới không được dân thực hiện, không đi vào thực tiễn, chỉ nằm trên bàn giấy; các phong trào thi đua trở nên hình thức; các cuộc vận động, huy động sự đóng góp của dân bị phản ứng dưới nhiều hình thức, có khi lan rộng ra nhiều nơi. Người cán bộ lãnh đạo hết lòng vì dân, ở đâu, khi nào cũng được dân kính trọng, tôn vinh, như Bác Hồ - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc – danh nhân văn hóa thế giới và gần đây là Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tôn vinh là "Đại tướng của nhân dân"...
  • Gắn bó với nhân dân còn là yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững đang yêu cầu cao về phát huy năng lực sáng tạo của quần chúng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân của quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo hiện nay. Gắn bó với dân để phát huy những sáng kiến, kinh nghiệm trong dân, huy động các nguồn lực phát triển trong các thành phần kinh tế, tạo động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế nước ta hiện nay.
  • Gắn bó với nhân dân là dựa vào dân để xây dựng Đảng. Đảng chỉ có một mục tiêu phấn đấu là vì nước, vì dân, ngoài ra Đảng không có lợi ích nào khác. Trong lịch sử đấu tranh oanh liệt, Đảng đã được nhân dân yêu mến, giúp đỡ, chở che, "lòng dân yêu Đảng như là yêu con", nhờ đó mà đạt được thắng lợi. Ngày nay, trong công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, Đảng không thể thành công nếu không dựa vào dân.
  • Nội dung gắn bó với nhân dân hiện nay bao gồm nhiều mặt, từ xây dựng chủ trương, đường lối, hoạch định chính sách đến tổ chức thực hiện. Có thể nêu một số điểm chính là: - Luôn luôn xuất phát từ lợi ích của đại đa số nhân dân để xây dựng chính sách. - Gần dân, luôn quan tâm đến đời sống thực tiễn của nhân dân, để nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, yêu cầu của dân sinh, dân trí... để cùng dân giải quyết. - Đảng và Nhà nước có các biện pháp để thực hành dân chủ thực sự trong dân, để nhân dân được tham gia, được nói, được bàn, được quyết định theo đa số những vấn đề thiết thân với dân ở cơ sở.
  • Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo quyền lợi chính đáng của người dân chân chính, hạn chế tác hại của lợi ích nhóm, chống tham nhũng có hiệu quả. Xử lý kiên quyết, kịp thời những hành động tham ô, xâm hại đến lợi ích chính đáng của nhân dân, nhất là ở cơ sở hiện nay.
  • Tiếp tục thực hiện tốt các quy định trong sinh hoạt đảng, như sinh hoạt hai chiều, lấy phiếu tín nhiệm, điều tra dư luận xã hội, phục vụ cho công tác xây dựng Đảng hiện nay.

3. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh

  • Đảng ta có truyền thống đoàn kết, vượt qua khó khăn, thử thách. Từ khủng bố trắng những năm 1930-1931, Đảng đã vươn mình đứng dậy. Trong điều kiện "ngàn cân treo sợi tóc" những năm 1945-1946, Đảng tự tuyên bố giải tán, trở thành "Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác" để tập hợp sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện "dễ bất biến ứng vạn biến" để giữ vững nền độc lập còn non trẻ trước âm mưu xâm lược của bên ngoài. Trong những năm chiến tranh, kẻ thù muốn dùng bom đạn để biến chúng ta quay lại "thời kỳ đồ đá", nhưng chúng ta đã đứng vững và chiến thắng. Trong những năm 1989-1991, trong số 13 nước xã hội chủ nghĩa có 9 nước đảng cộng sản, công nhân cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ, nhưng chúng ta đã vượt qua bao khó khăn, đổi mới để tiến lên. Nguyên nhân đầu tiên và bài học chung của các thắng lợi là đoàn kết toàn Đảng, toàn dân.
  • Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, chúng ta cũng đang đứng trước những thử thách lớn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay đã trở thành "vấn đề cấp bách", cần tập trung giải quyết. Lợi ích nhóm đang tác động lớn đến việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đang là nguy cơ trở thành cơ sở kinh tế của sự chia rẽ, thiếu thống nhất trong nội bộ. Yêu cầu của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên trực tiếp và thường xuyên. Đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang trở nên quan trọng và cấp thiết hơn.

Tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tập trung vào những nội dung, công việc chính sau đây:

Một là, nâng cao phẩm chất trí tuệ của Đảng, xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp cho giai đoạn phát triển mới

  • Đảng ta là cầm quyền. Năng lực cầm quyền của Đảng là sự tổng hoà trình độ, khả năng, bản lĩnh chính trị để giải quyết các yêu cầu, nhiệm vụ do tình hình đất nước và thế giới đặt ra, nhằm lãnh đạo toàn dân thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Muốn đề ra đường lối, chủ trương, quyết sách phù hợp, Đảng phải nâng cao tầm trí tuệ, nắm chắc yêu cầu thực tiễn, tình hình trong nước và quốc tế để tiếp tục hoàn thiện đường lối đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
  • Trong hoạch định đường lối phải tránh bảo thủ, trì trệ, đồng thời phải tránh hấp tấp, vội vàng, làm tốt công tác dự báo, chú ý đến những vấn đề mới nẩy sinh để kịp thời nghiên cứu, tổng kết, bổ sung, phát triển cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Việc xây dựng, hoàn thiện đường lối đổi mới phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh "đảng phải có chủ nghĩa làm cốt". Đảng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm kim chỉ nam cho hành động, cơ sở quy tụ, xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc.

Hai là, quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, thực sự coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt ở tất cả các cấp, các ngành.

  • Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự suy yếu, thoái hóa, biến chất của tổ chức đảng, làm cho vai trò cầm quyền của Đảng bị suy giảm, có thể dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội là một nguy cơ lớn. Chăm lo xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện tối cần thiết và là điều kiện tiên quyết để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính chất then chốt của nhiệm vụ xây dựng Đảng thể hiện trong các điểm sau:
  • Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thu hút và phát huy tiềm năng trí tuệ của toàn dân tộc. Trong thực hiện nhiệm vụ này, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải "động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân".
  • Cần đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ đức và tài, đầy tinh thần trách nhiệm trước Đảng, trước dân tộc, năng động, dám nghĩ, dám làm... không chỉ là sự quan tâm, phát huy nhân tố con người trong Đảng, mà còn để phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, vấn đề có ý nghĩa quyết định đến thành bại của cả sự nghiệp cách mạng.
  • Kiên quyết đấu tranh, khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tiêu cực khác ở trong Đảng và ngoài xã hội. Những tiêu cực trong xã hội đã xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy Nhà nước, thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng, Nhà nước trong Nhân dân, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước. Do vậy, toàn Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có nhận thức đúng đắn tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về nhiệm vụ xây dựng Đảng, để tham gia đấu tranh khắc phục tình trạng trên, xây dựng Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh".

Ba là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

  • Phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng để đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn cuộc sống. Đó cũng chính là yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra trong trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc".
  • Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và đặt trọng tâm đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Phát huy vai trò giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Đảng tiếp thu những ý kiến của các tổ chức, đoàn thể để bổ sung, phát triển, điều chỉnh đường lối, chủ trương; để đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ với dân.

  • Giải quyết mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân hiện nay đang trở thành vấn đề cấp thiết, là bài học lớn rút ra từ 30 năm đổi mới. Sự phản ứng, đôi khi gay gắt, của nhân dân ở một số nơi đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chính quyền các cấp, rõ nhất là cấp cơ sở; các "điểm nóng" liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề nhà, đất, quyền dân chủ, dân sinh... liên tiếp xuất hiện ở nhiều địa phương đã phản ánh sự không bình thường trong mối quan hệ máu thịt này.
  • Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế... để giải quyết mối quan hệ này, nhưng nói chung hiệu quả vẫn còn rất thấp. Điều đó phản ánh sự cố gắng, quyết tâm chính trị nhưng vấn đề cơ bản hiện nay là tổ chức thực hiện tích cực, kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả ở các cấp, các ngành. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, của mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, trước hết là các cấp ủy đảng.
  • Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với dân, ở tất cả các cấp, các ngành phải quán triệt các chỉ dẫn của Bác: Các quyết định, chủ trương được thông qua phải lấy lợi ích của đa số nhân dân làm mục đích; các chính sách được ban hành phải có mục tiêu vì dân; cán bộ, đảng viên, công chức phải là công bộc của dân, "vì nhân dân phục vụ"; các biện pháp thực hiện phải dựa vào sức dân và mang lợi ích cho dân... Điều quan trọng là mọi hoạt động của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể phải thực sự lấy dân làm gốc.
  • Đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh "là đạo đức, là văn minh" hiện nay không chỉ là trách nhiệm của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy các cấp, từ Trung ương đến cơ sở; của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và là sự mong đợi của các tầng lớp nhân dân.

III. LIÊN HỆ

1. Đối với bản thân

Là đảng viên, Bí thư chi bộ, Trưởng phòng Chế độ BHXH, bản thân tôi nhận thấy học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh về "Trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" là chuyên đề quan trọng về tính trung thực, tinh thần trách nhiệm; đoàn kết, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một tài liệu học tập rất bổ ích, thiết thực của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và lao động hợp đồng trong hệ thống BHXH tỉnh Gia Lai để tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện phương pháp và tác phong làm việc, nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn nhiệm vụ công tác của mình.

  • Đối với tự mình: không được tự mãn, tự túc mà phải tìm tòi, học hỏi, cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo mà phải học lấy điều hay của bạn bè, đồng nghiệp. Phải cần cù, siêng năng, chịu khó, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc của mình. Thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phẩm chất và năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương pháp công tác tốt, trong đó phẩm chất đạo đức được coi là yếu tố hàng đầu, là gốc, là nền tảng. Nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, các quy định của ngành và địa phương, nội quy, quy chế của cơ quan, đơn vị.
  • Đối với bạn bè, đồng nghiệp: phải thân ái, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày. Trước bạn bè, đồng nghiệp không nên che dấu khuyết điểm, không tranh giành ảnh hưởng của nhau, không ghen ghét, đố kỵ, khinh bỉ người khác, bỏ lối hiếu danh, hiếu vị...Cần học tập những điều hay từ bạn bè, đồng nghiệp, sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm trước mọi người, đồng thời góp ý kiến phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ. Không lợi dụng phê bình để trù dập lẫn nhau mà phải đoàn kết, thống nhất, phê bình trên tinh thần xây dựng cùng tiến bộ.
  • Đối với công việc: Là Trưởng phòng, tham mưu cho Giám đốc BHXH tỉnh thực hiện các chế độ BHXH trên địa bàn toàn tỉnh, bản thân phải tận tuỵ, hiểu rõ việc mình làm, trước khi bắt tay vào làm việc phải có kế hoạch cụ thể từng bước, xắp xếp theo thứ tự việc nào trước thì tiến hành làm trước, việc nào sau thì tiến hành làm sau. Khi tiến hành làm việc gì phải suy nghĩ cho kỹ cái lợi như thế nào, lợi cho ai; nếu thất bại thì hậu quả đến mức nào, ảnh hưởng trực tiếp đến ai để có cách giải quyết hợp lý nhất, tránh gây thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể. Mỗi ngày, lúc sang dậy tự hỏi mình ngày hôm nay phải làm gì? tối đi ngủ phải tự hỏi mình ngày hôm nay đã làm được gì? Phải cẩn thận khi làm việc, tuy nhiên cẩn thận không phải là nhút nhát, chậm chạp, do dự mà là nhanh nhẹn, chắc chắn và làm đúng quy định, đúng kế hoạch, tiến độ đặt ra. Đi làm việc phải đúng giờ, làm cho chóng vánh, chu đáo, việc hôm nay chớ để ngày mai và luôn tâm niệm rằng tiền lương mà ta hưởng là tiền của Chính phủ, mà tiền của Chính phủ chính là tiền do lao động của dân làm ra đóng góp vào. Đối với người làm công tác BHXH, tiền lương hàng tháng và các khoản chi phí phục vụ cho hoạt động của ngành được trích từ tiền sinh lời từ đầu tư bằng tiền thu BHXH, BHYT, BHTN tạm thời nhàn rỗi, nhưng suy cho cùng có nguồn gốc từ tiền BHXH, BHYT, BHTN do người lao động và nhân dân đóng góp. Cho nên ai lười biếng là lừa gạt dân. Do đó cần phải làm việc hăng say, nhiệt tình, hiệu quả và hết sức trách nhiệm với công việc.
  • Đối với nhân dân: phải kính trọng, lễ phép, lắng nghe ý kiến của dân, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân, hiểu sự khó khăn, khổ cực của dân và phải nắm được dân đang muốn gì ở Đảng, ở Nhà nước, ở chính sách BHXH, BHYT. Có những việc dân không muốn mà phải làm như di dời, tản cư, nộp thuế, tham gia BHXH, BHYT thì phải giải thích cho dân hiểu, dân tin, khi đã thông suốt rồi thì dân sẽ thực hiện. Muốn cho dân hiểu, dân tin, dân làm, thì cán bộ phải gương mẫu, phải cần, kiệm, liêm, chính, phải trung thực, trách nhiệm. Đối với cơ quan, đoàn thể: Mỗi cơ quan, đoàn thể đều vì dân vì nước, do vậy, khi vào đó làm việc thì phải bỏ tự do cá nhân, "chớ lên mặt làm quan cách mạng". Phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cơ quan, đoàn thể, phải trung thành để bảo vệ quyền lợi, danh giá của cơ quan, đoàn thể và thực hiện nghiêm chế độ dân chủ tập trung, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tập thể, cấp dưới chấp hành mệnh lệnh cấp trên. Không được báo cáo sai sự thật theo kiểu làm thành một việc thì phóng đại, thất bại thì giấu đi... Đối với Đảng: Phải tuyệt đối trung thành, phải thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên, Nghị quyết của Chi bộ và pháp luật của nhà nước, các quy định của ngành và địa phương, nội quy, quy chế của cơ quan. Khắc phục mọi khó khăn, cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng. Rèn luyện, học tập nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lý, năng lực thực hiện, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và Tổ chức Đảng, phục tùng kỷ luật Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng, với nhân dân; làm tốt công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt đảng và đóng đảng phí đầy đủ, đúng kỳ.

2. Đối với tập thể đơn vị

Bảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước, là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bị thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc bị chết, góp phần giữ vững trật tự, an toàn xã hội và chính sách an sinh xã hội của Đảng và nhà nước. Với ý nghĩa mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc đó, ngành bảo hiểm xã hội nói chung, bảo hiểm xã hội tỉnh Gia Lai nói riêng đã khắc phục mọi khó khăn, đoàn kết, thống nhất, tích cực thực hiện các chế độ BHXH, BHYT đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, đem lại niềm tin và đáp ứng được quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động tham gia BHXH, BHYT và người hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Để thực hiện tốt nhiệm vụ có ý nghĩa lớn lao đó, trong những năm qua, Cấp uỷ Chi bộ, đảng viên, viên chức phòng Chế độ BHXH với tinh thần trách nhiệm cao đã lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các chế độ BHXH cho người lao động, góp phần thực hiện hiện thắng lợi nhiệm vụ của ngành và nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục thực hiện cuộc vận động "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh'', Cấp uỷ chi bộ, cán bộ quản lý và toàn thể đảng viên, viên chức phòng chế độ BHXH xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

  • Nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần kỷ luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực thực hiện, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Thực hiện công tác BHXH, BHYT đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Chuyển mạnh và triệt để tác phong làm việc hành chính sang phục vụ người lao động tham gia BHXH, BHYT và người hưởng các chế độ BHXH, BHYT.
  • Tham mưu cho lãnh đạo BHXH tỉnh thực hiện xét duyệt các chế độ BHXH đảm bảo kịp thời, đầy đủ, đúng quy định. Lập danh sách chi trả và chuyển danh sách chi trả đúng thời gian quy định cho ngành Bưu điện tỉnh thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng. Phối hợp với các phòng nghiệp vụ liên quan tổ chức kiểm tra tình hình xét duyệt các chế độ BHXH tại BHXH các huyện, thị xã, thành phố; tăng cường công tác hậu kiểm và công tác chi trả các chế độ BHXH cho người lao động tại các đơn vị sử dụng lao động, đảm bảo quyền lợi người lao động theo quy định của pháp luật, đồng thời tránh tình trạng lợi dụng, lạm dụng quỹ BHXH.
  • Phối hợp với các phòng nghiệp vụ thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến chính sách, pháp luật nói chung, nhất là các chính sách liên quan đến người lao động trong các doanh nghiệp thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các ấn phẩm, tờ rơi, đối thoại trực tiếp...
  • Đẩy mạnh thực hiện cải cách thủ tục hành chính và giao dịch điện tử hồ sơ BHXH, BHYT. Tham mưu cho lãnh đạo thực hiện cắt giảm thủ tục, hồ sơ không cần thiết, phấn đấu rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính về BHXH, BHYT còn 49,5 giờ.
  • Xây dựng nội quy, quy chế hoạt động và phát động các phong trào thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, kế hoạch được giao. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trong cơ quan và trong nhân dân, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, viên chức của đơ vị.
  • Trong sinh hoạt phải cởi mở, gần gũi, thẳng thắn mà trung thực, chịu khó lắng nghe ý kiến đóng góp của mỗi cá nhân, nhằm phát huy trí tuệ tập thể, đồng thời chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, sai trái, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của cán bộ, viên chức, khơi dây tính chủ động, sáng tạo của mọi người, góp ý phê bình trên tinh thần xây dựng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
  • Đẩy mạnh các hoạt động phong trào thể dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ, giao lưu kết nghĩa, giúp đỡ lẫn nhau trong đoàn viên của các đoàn thể và với các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.
  • Kịp thời động viên, khuyến khích và đề nghị khen thưởng cán bộ, viên chức có thành tích xuất sắc trong công tác, học tập và trong hoạt động đoàn thể, thường xuyên nêu cao các tấm gương điển hình tiên tiến, tạo tâm lý lan truyền trong cán bộ, công chức, viên chức để mọi người học tập và tích cực tham gia xây dựng cơ quan đơn vị trong sạch, vững mạnh. Tích cực tham gia xây dựng Quỹ khuyến học để động viên, khích lệ tinh thần học tập của con cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành.
  • Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong đơn vị phải thường xuyên nêu cao tinh thần trách nhiệm, vận động người thân và gia đình của mình chấp hành nghiêm chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, hương ước, quy ước của thôn, làng, tổ dân phố. Gia đình cán bộ, công chức, viên chức gương mẫu thực hiện kế hoạch hoá gia đình, nuôi con khoẻ, dạy con ngoan, tích cực hưởng ứng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, tham gia xây dựng tổ dân phố văn hoá, góp phần xây dựng khu dân cư văn minh, giàu đẹp.

III. MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CUỘC VẬN ĐỘNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ "TRUNG THỰC, TRÁCH NHIỆM, GẮN BÓ VỚI NHÂN DÂN; ĐOÀN KẾT XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH"

1. Về trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân

Thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ và tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo của BHXH Việt Nam, Cấp ủy, Chính quyền địa phương; sự phối hợp của các Sở, Ban, Ngành liên quan từ tỉnh đến huyện. Xác định công tác BHXH có tính chất chính trị, kinh tế, xã hội tổng hợp nhằm phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Phải coi công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH là một trong những nhiệm vụ cơ bản, quan trọng hàng đầu trong công tác BHXH. Các chính sách, chế độ BHXH phải được tổ chức thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời, đúng quy định. Tăng cường kiểm tra công tác giải quyết và chi trả các chế độ BHXH; quản lý chặt chẽ hồ sơ, theo dõi, quản lý dữ liệu người hưởng các chế độ BHXH.

Tập trung phát triển đối tượng tham gia BHXH, hướng đến mục tiêu mọi người lao động đều được tham gia BHXH theo Chương trình số 55-CTr/TU của Tỉnh ủy Gia Lai thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW của Bộ chính trị "về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020". Phấn đấu đến năm 2020 có 15% lực lượng lao động tham gia BHXH.

Đảm bảo chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng kịp thời, đầy đủ, chính xác. Tiếp tục ký hợp đồng dịch vụ chi trả và quản lý người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng qua hệ thống Bưu Điện nhằm phục vụ người hưởng ngày càng tốt hơn.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức đầy đủ về quyền lợi khi tham gia BHXH, BHYT như tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ BHXH, BHYT trên các phương tiện thông tin đại chúng, tờ rơi, pa-nô, áp-phích, nhất là tổ chức thực hiện đối thoại trực tiếp với đơn vị sử dụng lao động, người lao động và nhân dân.

Thẩm định, xét duyệt hồ sơ hưởng chế độ BHXH cho người lao động kịp thời, đúng quy trình, quy định. Tiếp tục rà soát đơn vị và người tham gia BHXH, hướng đến xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung đối tượng tham gia.

Tiếp công dân và giải quyết kịp thời đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo; hạn chế tình trạng khiếu kiện của công dân về giải quyết chế độ chính sách. Kiểm tra việc thực hiện luật BHXH tại các đơn vị theo kế hoạch kiểm tra hàng năm.

Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin trong công tác tiếp nhận, giải quyết chế độ chính sách và các lĩnh vực công tác khác; Triển khai nhiều giải pháp để thực hiện chương trình cắt giảm số giờ giải quyết thủ tục hành chính về BHXH chỉ còn 49,5 giờ theo mục tiêu Chính phủ giao cho Ngành.

Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống; nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực quản lý, năng lực thực hiện cho cán bộ, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ, viên chức quản lý; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ người lao động tham gia và người hưởng các chế độ BHXH.

Giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể cơ quan, đơn vị; thực hiện đầy đủ Quy chế dân chủ ở cơ sở; quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ, viên chức; thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng và nêu gương, biểu dương các điển hình tiên tiến.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng quy hoạch cán bộ quản lý giai đoạn 2016 - 2020. Thực hiện đầy đủ các chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp đồng theo quy định. Đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu phát triển Ngành.

Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của ngành.

2. Về đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh

Xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng cấp trên.

Đoàn kết thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ. Thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình đồng chí cho cán bộ, đảng viên. Thái độ chân thành, cởi mở, tôn trọng lẫn nhau, tính khiêm tốn, biết thông cảm, hết lòng giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ là những nét tiêu biểu của tình đoàn kết cộng sản. Việc thiết thực nhất để rèn luyện đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay là cấp ủy chi bộ và đảng viên, viên chức nghiêm túc thực hiện và thực hiện hiệu quả, chất lượng việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh".

Thường xuyên nghiêm túc tự phê bình và phê bình là một phương pháp rất căn bản để tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng nhằm giải quyết hài hòa những mâu thuẫn, tạo nên sự nhất trí cao trong Đảng. Xác định rõ mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm phát huy ưu điểm, tìm ra khuyết điểm để giúp nhau sửa chữa, nâng cao nhận thức, giải quyết những bất đồng nội bộ. Mặt khác, cần nghiêm khắc phê phán lợi dụng phê bình để đả kích lẫn nhau. Tự phê bình phải gắn với "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau", nhưng càng yêu bao nhiêu lại càng phải "yêu cầu" bấy nhiêu.

Đổi mới và nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt chi bộ, tổ chức sinh hoạt chuyên đề mỗi quý một lần. Trong sinh hoạt chi bộ cần động viên, khuyến khích và tạo thuận lợi phát huy khả năng, trí tuệ, sáng tạo và tinh thần đóng góp ý kiến của mỗi đảng viên để giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập, trên cơ sở đó xây dựng nghị quyết của chi bộ đảm bảo chất lượng, khả thi. Tích cực đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ viên chức rèn luyện, phấn đấu trở thành quần chúng ưu tú để phát triển đảng viên. Đăng ký thi đua hàng năm làm cơ sở cho công tác đánh giá chất lượng đảng viên và xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.

TÓM LẠI

Ngày nay đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và những thách thức đan xen, việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi mới là điều quan trọng. Muốn vậy phải tăng cường công tác giáo dục đạo đức trong Đảng về tính trung thực, tính trách nhiệm về sự gắn bó máu thịt với nhân dân, đoàn kết xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đẩy mạnh và thường xuyên thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng", đặc biệt là đấu tranh chống suy thoái về chính tri, tư tưởng, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh có vai trò quyết định đến việc bảo vệ chế độ Chính trị, con đường phát triển của đất nước lên Chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Để xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc và thời đại, Đảng phải luôn tự chỉnh đốn mình, đoàn kết và có quan hệ máu thịt với nhân dân, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên chúng ta - với tư cách là người lãnh đạo, thì người lãnh đạo ấy phải có trách nhiệm xây dựng Đảng, với tư cách là đảng viên, thì người đảng viên ấy phải gương mẫu tự mình rèn luyện phẩm chất, tư cách...

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay chúng ta cần tiếp tục vận dụng và phát triển những quan điểm, tư tưởng về "trung thực, trách nhiệm, gắn bó với nhân dân; đoàn kết, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh" của Hồ Chí Minh để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trong giai đoạn cách mạng mới. Đặc biệt là tổ chức thực hiện hiệu quả, chất lượng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ cơ sở BHXH tỉnh Gia Lai gắn với việc thực hiện chủ đề "Tăng cường kỷ cương, trách nhiệm, hiệu quả, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế" và năm chuẩn mực đạo đức đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng của Ngành Bảo hiểm xã hội./.

5. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh 2020

"Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh"

- Họ và tên:..........................................................................................

- Chức vụ:............................................................................................

- Đảng viên: .....................................................................................…

- Tổ chuyên môn:................................................................................

- Đơn vị Công tác:................................................................................

Câu hỏi:

Đồng chí hãy nêu nội dung cơ bản của chuyên đề năm 2020 về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Bài làm

Nội dung cơ bản của chuyên đề năm 2020:

- Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

- Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng mới.

Liên hệ với chức trách nhiệm vụ cơ bản của bản thân và đề ra phương hướng phấn đấu làm theo.

Căn cứ vào nội dung chuyên đề năm 2020: “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” nhằm tiếp tục nâng cao nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân về những nội dung cơ bản, giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tiếp tục đưa nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành nền nếp, gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bản thân tôi là một đảng viên và là một người giáo viên đã làm được và đưa ra phương hướng như sau:

1. Những kết quả đã làm được:

- Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ được Đảng và chính quyền giao phó. Sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hòa nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân dân phục vụ. Tự rèn luyện trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong của người Đảng viên.

- Về ý thức trách nhiệm tâm huyết với công việc nghề nghiệp. Luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như của Ngành. Thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

+ Về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức thường xuyên: Tôi luôn cập nhật thông tin trên mọi thông tin đại chúng để chắt lọc, tìm kiếm những tấm gương đạo đức tốt để học hỏi.

+ Thẳng thắn, trung thực bảo vệ công lý, bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; Chân thành, khiêm tốn, không chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu khuyết điểm ….

+ Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị. Luôn nêu gương trước đảng viên quần chúng. Nêu cao ý thức trách nhiệm công việc.

- Về ý thức tổ chức, kỷ luật, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh:

+ Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh để làm rối loạn gây mất đoàn kết nội bộ.

+ Luôn có ý thức coi trọng tự phê bình và phê bình. Luôn phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.

2. Những mặt chưa làm được hoặc còn tồn tại, hạn chế.

Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm như đôi lúc làm việc còn chưa khoa học, chưa hệ thống. Và tinh thần làm việc đôi lúc chưa thật sự sâu sát, tỉ mỉ. Làm việc còn nhiều lúc hình thức chưa lắng nghe ý kiến góp ý của đồng nghiệp. Trong công tác chuyên môn nhiều lúc phê bình đồng nghiệp còn nóng nảy, gay gắt chưa khéo léo.

3. Phương hướng phấn đấu, rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống của bản thân theo gương chủ tịch Hồ Chí Minh:

Phấn đấu hoàn thành tốt và giữ vững những kết quả đã đạt được. Luôn là người gương mẫu xứng đáng với niềm tin. Luôn gương mẫu trong các hoạt động, tích cực vận dụng sáng tạo trong giải quyết công việc được giao, phải luôn nêu gương về mặt đạo đức, giữ vững lập trường.

Trong thâm tâm của bản thân cũng như trong mọi hành động, tôi luôn quán triệt tư tưởng sâu sắc trong việc đấu tranh với bản thân để noi theo tấm gương vĩ đại của Người. Song song với việc xây dựng Đảng tùy theo sức và vị trí của mình, bản thân tôi cũng luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, chống những luận điệu xuyên tạc và cơ hội về Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới, áp dụng triệt để và linh hoạt các nguyên tắc của Người tùy theo vị trí của mình như: Tập trung dân chủ, Tự phê bình và phê bình, kỷ luật nghiêm minh tự giác, trong cơ quan cũng như trong cuộc sống cộng đồng.

Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân. Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh. Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.

.............., ngày...... tháng ...... năm 2020

Người viết thu hoạch

6. Bài thu hoạch học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Người luôn chăm lo giáo dục và rèn luyện cho cán bộ Đảng viên và mọi người dân về phẩm chất đạo đức cách mạng. Người là tấm gương sáng về đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính”. Người luôn luôn vận động mọi người dân chúng ta thi đua thực hành tiết kiệm để xây dựng tổ quốc!

Hồ Chủ tịch đã dạy chúng ta: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải là ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, tiết kiệm cốt để giúp tăng gia sản xuất, mà tăng gia sản xuất mà để dần dần nâng cao mức sống của bồ đội, cán bộ và nhân dân. Nói theo lối khoa học, thì tiết kiệm là tích cực, chứ không phải là tiêu cực”

- Theo lời dạy của Bác Hồ, chúng ta phải hiểu rằng: Tiết kiệm không có nghĩa là không chi tiêu, nhịn ăn, nhịn mặc. Tiết kiệm là sử dụng các nguồn lực và chi tiêu một cách hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh gia đình, không hoang phí.

Người dân Việt Nam đã có truyền thống tốt đẹp về cần cù, chịu thương, chịu khó và tiết kiệm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao 4 đức tính tốt đẹp “Cần, kiệm, liêm, chính” để thầy rằng “kiệm” đã trở thành 1 trong 4 đức tính tốt đẹp của con người, dù là khi đất nước còn khó khăn hay khi đất nước đã phồn thịnh. “Cần” và “Kiệm” phải đi đôi với nhau. Cần mà không kiệm thì làm chứng nào, xào chừng ấy. Kiệm mà không cần thì không tăng thêm, không phát triển được.

Nền kinh tế nước ta qua 20 năm đổi mới đã có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nghèo, đời sống một bộ phận người dân vẫn còn khó khăn, thiếu thốn. Để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, đảm bảo đời sống người dân thì nền kinh tế của nước ta cần được phát triển. Muốn xây dựng và phát triển kinh tế, thì phải có tiền của để làm vốn. Muốn có vốn thì chúng ta phải vừa đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, vừa thực hành tiết kiệm để tăng thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc gia cũng như kinh tế gia đình. Vì vậy, việc thực hành tiết kiệm có một ý nghĩa to lớn nhằm góp phần tích luỹ để thúc đẩy và phát triển sản xuất.

Ông cha ta có câu: “Miệng ăn núi lở”, ý nói: Nếu một người có một núi của cải mà chỉ biết sử dụng, không lo làm ăn, không biết tiết kiệm đề bù đắp, tăng thêm thì dần dần cũng dẫn đến đói nghèo.

Đặc biệt, hiện nay tiết kiệm đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Luật chống tham nhũng và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được ban hành cho thấy vai trò to lớn của vấn đề TK, tiết kiệm được coi là quốc sách.

Chúng ta có thể thực hành tiết kiệm ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày, từ sản xuất đến tiêu dùng, từ gia đình đến cộng đồng, xã hội. Bất kể lĩnh vực nào cũng có thể thực hành tiết kiệm được.

Để thực hành tiết kiệm theo tấm gương của Hồ Chí Minh và chủ trương của Đảng, Nhà nước, chúng ta phải:

  • Tự rà soát trong sản xuất, tiêu dùng của gia đình, cộng đồng, nơi mình sinh sống có những việc gì cần chưa tiết kiệm, lãng phí, để thay đổi, cải tiến sao cho tiết kiệm, hiệu quả.
  • Tiết kiệm sức lao động: Tổ chức sắp xếp công việc cho khéo để có những việc trước kia phải dùng nhiều người nay chỉ ít người hơn nhưng vẫn đảm bảo thời gian, chất lượng, hiệu quả; phân công lao động phù hợp cho các thành viên trong gia đình.
  • Tiết kiệm thời gian: Xây dựng tác phong làm việc đúng giờ cho bản thân và các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng; không lãng phí thời gian lao động vào những việc không có ích; trong sinh hoạt hội, sinh hoạt cộng đồng không để người này chờ người kia gây lãng phí thời gian của nhau…
  • Tiết kiệm tiền, của: Có kế hoạch, tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đầu tư cho sản xuất, trước khi mua sắm, tiêu dùng: thực hành tiết kiệm trước khi đâu tư, trước khi tiêu dùng.
  • Tiết kiệm năng lực: như điện, nước, xăng, dầu, củi… Tạo thói quen “Ra tắt vào bật” các thiết bị điện. Hạn chế sử dụng các thiết bị điện có công suất lớn vào giờ cao điểm (từ 18 giờ đến 22 giờ hàng ngày).
  • Tiết kiệm việc ma chay, cưới xin: Thực hiện tổ chức ma chay hoặc cưới xin theo nếp sống mới. Hình thức tổ chức đám cưới có thể tiết kiệm được tiền mà ở địa phương đang thực hiện, là tổ chức cưới tập thể, tổ chức tiệc ngọt, hoặc chỉ tổ chức ăn uống liên hoan trong họ hàng nội ngoại thân tộc. Trong cưới xin, ma chay chúng ta cần tránh những thủ tục lạc hậu, tránh đua đòi dẫn đến tiêu tiền một cách lãng phí, mang nợ nần, thiệt hại kinh tế gia đình và gây tốn kém cho người khác. Chúng ta phải ủng hộ và nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương của cấp uỷ, chính quyền địa phương về thực hiện nếp sống văn minh trong việc tổ chức ma chay, cưới xin.

Thấm nhuần đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh bản thân tôi đang sống và làm việc tại xí nghiệp may 3 Công ty 20. Tôi luôn luôn tự nhủ mình phải sống và rèn luyện cho bản thân mình theo tấm gương sáng của Hồ Chí Minh. Luôn xây dựng tinh thần đoàn kết nội bộ thi đua thực hành tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, biết tiết kiệm vật chất cũng như thời gian làm việc, lao động sản xuất có hiệu quả có chất lượng cao đem lại nhiều lợi ích cho xí nghiệp. Không đi muộn về sớm, không né tránh “dễ làm, khó bỏ” hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được tổ chức giao phó. Luôn luôn học hỏi sáng tạo trong công việc để tiết kiệm được nhiều của cải vật chất cho xí nghiệp. Sẵn sàng giúp đỡ những đồng sự yếu kém cùng tiến bộ. Vận động mọi người thi đua thực hiện tốt mọi nội quy, quy chế của xí nghiệp và công ty đề ra. Lao động có kỹ thuật, kỷ luật và đạt năng suất cao.

Hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Xây dựng Công ty may 3 trở thành xí nghiệp vững mạnh toàn diện, xứng đáng lá cờ đầu của công ty 20 đã và đang phát triển hùng mạnh trong thời kỳ đổi mới.

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.


Nếu bạn không thấy nội dung bài viết được hiển thị. Vui lòng tải về để xem. Nếu thấy hay thì các bạn đừng quên chia sẻ cho bạn bè nhé!

Tài liệu mới nhất