Bài phát biểu của J. K. Rowling tại Lễ tốt nghiệp trường ĐH Harvard: Lợi ích của sự thất bại và tầm quan trọng của trí tưởng tượng

Bùi Thế Hiển
Admin 29 Tháng sáu, 2017

Bài phát biểu của nhà văn J. K. Rowling tại đại học Harvard

Nữ nhà văn J. K. Rowling của bộ sách phù thủy đình đám Harry Potter đã có bài phát biểu đầy ấn tượng, khơi dậy cho người nghe sức mạnh nội tâm và những lý tưởng nhân văn cao cả trong lễ tốt nghiệp của trường đại học Harvard mùa hè năm 2008. Tìm Đáp Án mời các bạn theo dõi.

Những câu chuyện cuộc sống cực kỳ ý nghĩa mà bạn nên đọc

Những câu chuyện ý nghĩa về cách làm người

8 câu chuyện nhỏ nhưng lại có ý nghĩa lớn

Bài phát biểu của J. K. Rowling tại Lễ tốt nghiệp trường ĐH Harvard: Lợi ích của sự thất bại và tầm quan trọng của trí tưởng tượng

Bản dịch tiếng Việt:

Thưa hiệu trưởng Faust, thưa các thành viên Hội đồng Harvard và Ban Quản trị, các nhà giáo, các phụ huynh hãnh diện và nhất là các sinh viên tốt nghiệp.

Trước tiên tôi xin chuyển đến quý vị lời cảm ơn. Không những Harvard đã cho tôi một vinh dự lớn lao, mà những tuần lễ đầy lo sợ và nôn nao tôi phải bỏ ra suy tư về chuyện đọc diễn văn đã làm tôi sụt ký. Một thắng lợi cho cả đôi bên! Bây giờ tôi chỉ cần hít một hơi thật dài, nheo mắt nhìn những băng-rôn đỏ và tự nhủ với bản thân rằng mình đang ở một buổi hội ngộ giữa các học sinh Gryffindor lớn nhất thế giới.

Đọc diễn văn chào mừng ngày tốt nghiệp là một trọng trách lớn lao; ít ra tôi nghĩ như vậy cho đến khi tôi liên tưởng đến chính ngày lễ ra trường của mình. Người đọc diễn văn hôm ấy là nhà triết gia Anh quốc nổi tiếng, bà nam tước Mary Warnock. Hồi tưởng về bài diễn văn đó đã giúp tôi rất nhiều trong việc viết bài nói chuyện hôm nay, vì nghĩ cho cùng, tôi không còn nhớ một lời nào bà ấy nói. Phát hiện này đã giải phóng tôi, giúp tôi mạnh dạn xúc tiến mà không sợ mình lỡ dại xúi bẩy các bạn bỏ rơi một sự nghiệp đầy hứa hẹn trong kinh doanh, ngành luật hay chính trị vì những đốm sáng hào nhoáng của việc trở thành một thầy phù thủy vô tư.

Các bạn thấy chưa? Nếu trong nhiều năm tới đây, các bạn chỉ nhớ đến chuyện tếu về thầy phù thủy vô tư, các bạn vẫn nhớ đến tôi nhiều hơn bà nam tước Mary Warnock. Mục tiêu mà ta có thể đạt được là bước đầu tiên trong quá trình hoàn thiện cho bản thân.

Thật ra, tôi đã nghĩ nát óc xem mình phải nói gì với các bạn hôm nay. Tôi đã tự hỏi là vào cái tuổi ra trường thuở đó mình đã ao ước muốn biết những gì, và trong 21 năm kể từ ngày đó đến nay tôi đã thu thập được những bài học quan trọng nào.

Tôi tìm ra hai câu trả lời. Trong một ngày tuyệt vời như ngày hôm nay khi chúng ta hội tụ nơi đây để mừng thành quả học tập của các bạn, tôi đã quyết định nói chuyện với các bạn về lợi ích của sự thất bại. Và vì các bạn đang đứng trước ngưỡng cửa của cái mà người ta hay gọi là "cuộc sống thực tế", tôi cũng muốn ca ngợi sự quan trọng của trí tưởng tượng.

Điều này mới nghe ra thì thấy có vẻ là một chọn lựa quái dị và nghịch lý, nhưng xin các bạn kiên nhẫn với tôi một chút.

Hình dung lại tuổi 21 lúc mới ra trường là một việc không được dễ chịu lắm đối với một người đàn bà đã đến tuổi 42 như tôi hôm nay. Nửa cuộc đời trước đây, tôi đang cố tìm sự thăng bằng giữa tham vọng của mình và những gì người thân trong gia đình muốn tôi phải đạt được.

Lúc đó tôi tin chắc rằng điều duy nhất mình muốn theo đuổi là viết tiểu thuyết. Nhưng bố mẹ tôi, những người xuất thân nghèo khó và không được học đại học, cho rằng trí tưởng tượng quá khích của tôi là một cái tật ngộ nghĩnh không cách nào có thể làm ra tiền để trả tiền nhà hay đảm bảo cho một đồng lương hưu trí về sau. Tôi biết bây giờ thì những lo nghĩ này đã trở nên khôi hài đến trớ trêu.

Cả hai người đều muốn tôi học nghề; còn tôi thì muốn theo đuổi ngành Văn học Anh. Chúng tôi đã đạt một thỏa hiệp mà bây giờ nghĩ lại cũng chẳng làm hài lòng ai cả, và tôi đã theo ngành Sinh ngữ Hiện đại. Trước khi ôtô của bố mẹ tôi vừa rẽ khuất khúc cua là tôi bỏ ngay lớp Đức văn để chạy tọt xuống hành lang Cổ văn [1].

Tôi không nhớ đã nói với bố mẹ là mình đã theo Cổ văn; có lẽ họ chỉ biết được chuyện này trong ngày lễ ra trường của tôi. Trong các môn học trên hành tinh này, thiết nghĩ nếu muốn tìm được một chìa khoá vào một phòng tắm sang trong một nội thất cao cấp, cha mẹ tôi khó có thể tìm được một môn học nào vô tích sự hơn môn Thần thoại Hy Lạp.

Tôi xin nói rõ là tôi không trách bố mẹ mình vì quan điểm của họ. Khi bạn đủ lớn để tự lèo lái cuộc đời mình, trách nhiệm thuộc về bạn, và bạn không thể trách bố mẹ là đã hướng bạn đi nhầm đường được nữa. Ngoài ra, tôi không thể trách bố mẹ vì đã hy vọng rằng tôi sẽ không bao giờ lâm cảnh nghèo khó. Cả hai bố mẹ tôi đều nghèo, và tôi cũng đã nghèo, và tôi đồng ý với họ rằng nghèo đi cùng với hèn. Nghèo khó mang theo sợ hãi và nhiều lúc cả trầm mặc; nó kéo theo hàng ngàn những nỗi nhục nhã và khó khăn nho nhỏ. Thoát khỏi nghèo khó bằng chính nỗ lực của mình, đó mới đích thực là điều đáng hãnh diện, và chỉ có ngớ ngẩn mới đi lãng mạn hóa sự nghèo khó mà thôi.

Điều mà tôi sợ nhất ở tuổi các bạn không phải là sự nghèo khó, mà là sự thất bại.

Ở tuổi của các bạn, mặc dù không hứng thú chút nào với đại học đường, nơi mà tôi bỏ quá nhiều thì giờ trong các quán cà phê để ngồi viết truyện và quá ít giờ ở các giảng đường, tôi vẫn qua được các bài thi, và trong nhiều năm, đó là thước đo thành công của cuộc đời tôi và cuộc đời các bạn tôi.

Tôi không đến nỗi khờ khạo mà cho rằng vì các bạn còn trẻ, tài giỏi và học vấn cao, các bạn không bao giờ gặp khó khăn hay buồn khổ. Tài năng và trí thông minh chưa bao giờ ngăn ngừa ai tránh khỏi những nổi trôi của Định mệnh, và không một giây phút nào tôi lại cho rằng mọi người ở đây đều trải qua một cuộc sống ưu tú và toại nguyện chưa hề bị xáo trộn.

Tuy nhiên, việc mà các bạn đã tốt nghiệp ở Harvard nói lên một điều: các bạn không quen thuộc lắm với thất bại. Có lẽ lo sợ thất bại thúc đẩy các bạn mạnh mẽ ngang với ham muốn thành công. Về học vấn, các bạn đã bay cao đến mức quan niệm về thất bại của các bạn có thể không khác mấy với quan niệm về thành công của người khác.

Cuối cùng thì ai cũng phải tự định nghĩa thế nào là thất bại, nhưng nếu bạn muốn, thiên hạ luôn có sẵn những tiêu chuẩn để đưa ra trước mặt bạn. Tôi nghĩ công bằng mà nói thì 7 năm sau ngày ra trường, tôi đã thất bại một cách thê thảm, xét theo bất kỳ tiêu chuẩn thường tình nào. Một cuộc hôn nhân quá ngắn đã sụp đổ, và tôi bị thất nghiệp, trở thành một người mẹ độc thân, và nghèo đến mức không thể nghèo hơn được nữa ở nước Anh hiện đại, trừ phi lâm vào cảnh vô gia cư. Những lo sợ mà bố mẹ tôi và của chính tôi dành cho mình đã trở thành sự thật, và theo như bất cứ một tiêu chí bình thường nào, bản thân tôi là sự thất bại lớn nhất mà tôi được biết.

Tôi sẽ không nói với các bạn rằng thất bại là vui. Trong đời tôi khoảng thời gian đó là những chuỗi ngày đen tối, và tôi không thể tưởng tượng được rằng cái mà báo chí vẫn gọi là kết cục của chuyện cổ tích sẽ xảy ra. Tôi không biết đường hầm sẽ kéo dài bao xa, và trong một thời gian dài, tia sáng cuối đường hầm là một niềm hy vọng hơn là một hiện thực. Nếu thế thì tại sao lại nói về lợi điểm của thất bại? Đơn giản là vì thất bại có nghĩa là tước bỏ hết những chuyện phù phiếm. Tôi thôi không đóng kịch làm người khác nữa, và bắt đầu dốc hết nỗ lực để hoàn tất công việc có nghĩa lý nhất đối với mình. Nếu tôi thành công trong bất kỳ một phạm trù nào khác, có lẽ tôi đã không đủ bền chí để đeo đuổi và thành công trong lĩnh vực mà tôi tin tưởng rằng đúng là lĩnh vực của mình. Tôi được giải phóng, vì mối sợ lớn nhất của tôi đã xảy ra, và tôi vẫn còn sống sót, vẫn còn một cô con gái tôi yêu, một cái máy chữ và một ý tưởng lớn. Cho nên đáy sâu vực thẳm đã là điểm tựa vững chắc cho tôi xây dựng lại cuộc đời.

Có lẽ các bạn sẽ không bao giờ bị thất bại như tôi đã trải qua, nhưng trong cuộc đời, thất bại là không thể tránh khỏi. Không thể sống mà không thất bại trong một việc gì đó, trừ phi ta sống dè dặt tới mức có thể coi như chưa sống – trong trường hợp đó, cả cuộc đời ta đã là một sự thất bại rồi.

Thất bại mang lại cho tôi một an bình về nội tâm mà tôi không bao giờ có khi thi đỗ những bài thi. Thất bại dạy cho tôi những điều về bản ngã của mình mà tôi không thể nào học được bằng cách nào khác. Tôi khám phá ra là tôi mạnh mẽ và kỷ luật hơn là mình tưởng; và cũng biết được rằng mình có nhiều người bạn đáng giá ngàn vàng.

Ý thức được chuyện mình vượt qua những khó khăn để trở nên khôn ngoan và kiên cường hơn có nghĩa là từ rày về sau mình có thể bình tâm hiểu rằng mình có khả năng tồn tại. Các bạn không thể hiểu được bản thân mình hay bản chất những mối quan hệ của mình cho đến khi chúng được thử thách trong nghịch cảnh. Hiểu được bản thân mình và bản chất các mối quan hệ của mình là một phần thưởng lớn, bất chấp những giọt nước mắt đã phải chảy để có được nó, và nó đáng giá hơn bất cứ những thành tích nào mà tôi đã đạt được.

Nếu có được một chiếc Xoay Thời gian, tôi sẽ khuyên mình ở tuổi 21 rằng hạnh phúc cá nhân nằm ở chỗ biết được cuộc đời không phải là một danh sách những thành tích. Học vị và tiểu sử của các bạn không phải cuộc đời của các bạn, tuy rằng các bạn sẽ gặp những người ở tuổi tôi hoặc lớn hơn hay lẫn lộn giữa hai thứ này. Cuộc đời khó khăn, phức tạp lắm, nó nằm ngoài mức kiểm soát trọn vẹn của bất cứ ai, và nếu bạn đủ khiêm nhường để hiểu được điều này, bạn sẽ vượt qua được những thăng trầm của nó.

Giờ thì, có thể các bạn nghĩ rằng tôi chọn tiêu đề thứ hai, sự quan trọng của trí tưởng tượng, vì cái phần đời của tôi mà nó đã giúp làm lại, nhưng không phải hoàn toàn như vậy. Tuy tôi sẽ bảo vệ đến hơi thở cuối cùng thói quen kể chuyện cho con cháu trước khi đưa chúng vào giấc ngủ, tôi đã học được cách đánh giá trí tưởng tượng theo nghĩa rộng hơn rất nhiều. Trí tưởng tượng không chỉ là khả năng độc đáo của loài người để hình dung những chuyện không có, và vì vậy, là nền tảng cho tất cả những phát minh và sáng tạo. Có thể nói rằng nó là khả năng giúp mang lại sự thay đổi và tỉnh ngộ nhiều nhất, giúp chúng ta có được sự đồng cảm với những con người có cuộc đời khác hẳn với chúng ta.

Một trong những kinh nghiệm chốt yếu nhất trong đời tôi xảy ra trước khi tôi viết Harry Potter, tuy rằng nó ảnh hưởng nhiều đến những gì tôi viết sau này trong những cuốn sách đó. Kinh nghiệm này đến với tôi qua những việc làm ban ngày đầu tiên của tôi. Mặc dù tôi hay rút thì giờ ăn trưa để viết truyện, tôi trả tiền thuê nhà trong những năm đầu của tuổi 20 bằng cách làm việc ở phân khu nghiên cứu về châu Phi ở Trung tâm Ân xá Quốc tế tại London.

Trong văn phòng nhỏ bé của tôi, tôi đọc những bức thư viết vội vàng đã được lén lút truyền ra khỏi những chế độ toàn trị bởi những con người dám chấp nhận khả năng bị giam cầm tù tội để cho thế giới bên ngoài biết chuyện gì đã xảy đến cho họ. Tôi đã thấy hình ảnh của những người bị biến mất không để lại dấu vết, do những gia đình và thân hữu tuyệt vọng của họ gởi đến cho Ân xá Quốc tế. Tôi đọc những lời khai của những nạn nhân bị tra tấn và nhìn thấy ảnh của những thương tích của họ. Tôi mở những lá thư của nhân chứng cho biết những vụ xử tử, kết tội tại chỗ không được tòa án xét xử, những vụ bắt cóc và hãm hiếp.

Nhiều đồng nghiệp của tôi là cựu tù nhân chính trị, những người bị đẩy ra khỏi nhà, hoặc phải lưu vong xa xứ sở, chỉ vì họ dám nghĩ khác với chính quyền của họ. Trong số những người viếng thăm văn phòng chúng tôi, có những người đến cho tin tức, hoặc đến để tìm tông tích của những người thân mà họ phải bỏ lại quê nhà.

Tôi sẽ không bao giờ quên một nạn nhân châu Phi bị hành hạ, một người thanh niên chỉ khoảng tuổi tôi vào thời đó, một người bị xáo trộn thần kinh sau những gì anh ta phải chịu đựng ở quê hương. Anh ta run rẩy không kềm chế được khi nói chuyện trước ống kính về những bạo hành mà anh ta đã trải qua. Anh cao hơn tôi 30 cm, và trông mỏng manh như một đứa trẻ. Tôi được giao nhiệm vụ đưa anh xuống trạm xe điện ngầm sau đó, và người đàn ông này, với cuộc đời bị bạo lực băm vằm của mình, đã nắm lấy tay tôi với một sự nhã nhặn và ưu ái, và chúc tôi hạnh phúc trong tương lai.

Và cho đến hết cuộc đời mình, tôi sẽ không bao giờ quên khi đi qua hành lang vắng, bỗng nhiên nghe một tiếng hét thảm thiết đằng sau một cánh cửa đóng, đau đớn và kinh khiếp, một tiếng thét mà cho đến bây giờ tôi chưa bao giờ nghe một tiếng nào kinh hoàng hơn. Cánh cửa mở ra, và cô nhân viên thò đầu ra bảo tôi đi pha hộ cho người đàn ông ngồi cạnh cô một cốc trà nóng. Cô vừa cho anh ta biết tin mẹ của anh vừa bị bắt và xử tử để trả đũa cho việc anh nói thẳng về chế độ của xứ sở mình.

Mỗi ngày làm việc trong tuổi 20 của tôi, tôi đều được nhắc nhở là mình đã may mắn như thế nào vì được sống trong một quốc gia có chính quyền dân cử, nơi mà đại diện pháp lý và và xét xử công khai là quyền lợi của mỗi người.

Mỗi ngày, tôi chứng kiến thêm những chuyện tàn ác mà loài người gây cho đồng loại mình, để chiếm và giữ quyền lực của mình. Tôi đã bắt đầu có những cơn ác mộng, thực sự như vậy, về những chuyện tôi thấy, nghe và đọc được.

Nhưng tôi cũng học được nhiều về sự tốt lành của con người ở Ân xá Quốc tế hơn bất cứ nơi nào khác.

Ân xá Quốc tế huy động cả ngàn người chưa bao giờ bị tra tấn hay giam cầm vì tư duy của mình để giúp cho những người là nạn nhân. Sức mạnh của sự cảm thông của loài người sẽ dẫn đến những hành động chung vai sát cánh cụ thể, cứu được mạng sống và giải thoát cho những người bị giam cầm. Những người bình thường, mà sự an sinh cá nhân được đảm bảo, kết hợp với nhau trong một số đông đáng kể để cứu vớt những người họ chưa quen biết hoặc sẽ không bao giờ gặp. Sự đóng góp nhỏ bé của tôi trong chu trình đó là một trong những kinh nghiệm tạo cảm hứng và khiến tôi phải hạ mình nhất trong cuộc đời.

Không như bất cứ một sinh vật nào khác trên thế gian này, loài người có thể học và hiểu biết mà không cần phải trải nghiệm. Họ có thể đặt ý nghĩ của mình vào trí óc của kẻ khác, tưởng tượng mình trong hoàn cảnh của đồng loại.

Tất nhiên, đây là một khả năng mà ta có thể dùng để phục vụ cả cái xấu lẫn cái tốt, giống như những phép lạ trong truyện của tôi. Người ta có thể dùng nó để thâu tóm và kiểm soát, cũng như để thấu hiểu hay cảm thông.

Nhiều người không thích sử dụng trí tưởng tượng của mình một chút nào. Họ chọn cách nằm yên trong ranh giới bình an và quen thuộc của cuộc sống, không buồn thắc mắc nếu họ phải sinh ra trong một hoàn cảnh khác hơn kinh nghiệm bản thân mình thì sẽ ra sao. Họ từ chối không nghe tiếng la hét hoặc nhìn vào những xà lim; họ có thể đóng tim óc mình lại trước những khổ đau không dính dáng đến bản thân họ; họ có thể từ chối không muốn biết.

Có lẽ tôi cũng suýt ganh tị với những người sống được như vậy, chỉ có điều tôi không nghĩ rằng họ ít bị ác mộng hơn tôi. Chọn lối sống hẹp hòi, xa lánh đồng loại có thể đưa mình đến một trạng thái tâm thần, sợ hãi đám đông, tự nó cũng mang đến những kinh hoàng. Thiển nghĩ những kẻ cố tình không có óc tưởng tượng như thế sẽ gặp nhiều ác quỷ. Họ thường sợ sệt hơn.

Hơn nữa, những người chọn sự vô cảm thường giúp sản sinh thêm nhiều ác quỉ trên đời này. Vì cho dù chính chúng ta không phạm tội ác độc, chúng ta đã đồng lõa với tội ác vì sự thờ ơ của chúng ta.

Một trong nhiều cái tôi học được ở cuối hành lang khoa Cổ văn, nơi tôi lần mò đến lúc mới 18 tuổi với hy vọng tìm được một cái gì mà vào lúc đó tôi chưa định nghĩa được, là câu sau đây của tác giả Hy Lạp Plutard: “Những gì chúng ta đạt được trong nội tâm sẽ thay đổi được sự thật bên ngoài.”

Đó là một mệnh đề phi thường, nhưng mặc dù vậy, nó được chứng minh hàng ngàn lần mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Nó nói lên phần nào sự gắn bó không thể tránh khỏi của chúng ta với thế giới bên ngoài, sự thật rằng chúng ta chạm đến cuộc đời những người khác chỉ vì chúng ta tồn tại.

Các bạn sinh viên tốt nghiệp Harvard hôm nay thân mến, khả năng các bạn sẽ thay đổi cuộc sống người khác là bao nhiêu? Sự thông minh, khả năng chuyên cần, siêng năng của các bạn, nền học vấn mà các bạn đã đạt được mang lại cho các bạn một địa vị độc nhất, và những trách nhiệm độc nhất. Ngay cả quốc tịch của các bạn đã đặt các bạn vào một vị thế khác thường. Tuyệt đại đa số các bạn là con dân của siêu cường quốc duy nhất còn lại trên thế giới. Cách bỏ phiếu của các bạn, lối sống của các bạn, cách biểu tình của các bạn, áp lực của các bạn đối với chính quyền của mình, có ảnh hưởng xa hơn biên giới của các bạn. Đó là ưu thế và cũng là gánh nặng của các bạn.

Nếu các bạn chọn tư thế và ảnh hưởng của mình để lên tiếng cho những người không có tiếng nói; nếu các bạn chọn không chỉ đứng cùng những kẻ có quyền lực mà đứng cùng những người yếu đuối; nếu các bạn giữ được khả năng tưởng tượng, đặt mình vào hoàn cảnh của những người không được may mắn như mình thì không chỉ có gia đình các bạn sẽ hoan nghênh sự hiện hữu của các bạn mà hàng vạn hàng triệu người sẽ ăn mừng các bạn, những người mà các bạn đã giúp cải thiện cuộc sống thực tại của họ. Chúng ta không cần phép lạ để sửa đổi thế gian này, chúng ta đã có sẵn trong người sức mạnh mà chúng ta cần: chúng ta có sức mạnh tưởng tượng những gì tốt lành hơn.

Tôi sắp xong. Tôi vẫn đặt kỳ vọng cuối cùng ở các bạn, một điều mà tôi đã có vào tuổi 21. Những người bạn ngồi chung với tôi trong ngày lễ ra trường đã trở thành những người bạn đồng hành trong suốt cuộc đời tôi. Họ là bố mẹ đỡ đầu của con tôi, những người mà tôi có thể tìm đến trong những lúc túng thiếu, khó khăn, những người bạn thật tốt và tử tế không kiện cáo tôi khi tôi mượn tên họ đặt cho những nhân vật Tử thần Thực tử trong truyện. Vào ngày lễ ra trường chúng tôi đã gắn bó rất khắng khít với nhau bằng một tình thương nồng ấm, chia sẻ những kinh nghiệm của một quá khứ không bao giờ có thể tìm lại được, và cố nhiên chúng tôi còn giữ những bằng chứng bằng hình ảnh mà ngày nay nếu có một ai trong chúng tôi ra ứng cử thủ tướng thì những bằng chứng này sẽ đáng giá vô cùng.

Cho nên hôm nay, tôi chỉ muốn chúc các bạn những tình bạn tương tự. Và ngày mai, tôi hy vọng nếu như các bạn không còn nhớ một chữ nào tôi nói hôm nay, các bạn sẽ nhớ mãi câu nói của Seneca, một trong những người La Mã xưa kia mà tôi gặp trong hành lang khoa Cổ văn khi trốn những nấc thang danh vọng để tìm sự thông thái của tiền nhân: “Đời cũng như một câu chuyện: không cần dài, mà cần tốt.”

Tôi xin chúc các bạn một cuộc đời tốt lành. Cảm ơn các bạn nhiều.

[1] Cổ văn: Ở đây ý là ngành học Classics Study,
ngành học nghiên cứu về văn học, văn hoá, lịch sử của Hy Lạp và La Mã cổ đại

Theo: Học viện Pháp thuật và Ma thuật Hogwarts Việt Nam


Toàn văn bài phát biểu của nhà văn J. K. Rowling

Bản tiếng Anh:

'The Fringe Benefits of Failure,
and the Importance of Imagination'

Text as delivered.

President Faust, members of the Harvard Corporation and the Board of Overseers, members of the faculty, proud parents, and, above all, graduates.

The first thing I would like to say is ‘thank you.’ Not only has Harvard given me an extraordinary honour, but the weeks of fear and nausea I have endured at the thought of giving this commencement address have made me lose weight. A win-win situation! Now all I have to do is take deep breaths, squint at the red banners and convince myself that I am at the world’s largest Gryffindor reunion.

Delivering a commencement address is a great responsibility; or so I thought until I cast my mind back to my own graduation. The commencement speaker that day was the distinguished British philosopher Baroness Mary Warnock. Reflecting on her speech has helped me enormously in writing this one, because it turns out that I can’t remember a single word she said. This liberating discovery enables me to proceed without any fear that I might inadvertently influence you to abandon promising careers in business, the law or politics for the giddy delights of becoming a gay wizard.

You see? If all you remember in years to come is the ‘gay wizard’ joke, I’ve come out ahead of Baroness Mary Warnock.

Achievable goals: the first step to self improvement.

Actually, I have wracked my mind and heart for what I ought to say to you today. I have asked myself what I wish I had known at my own graduation, and what important lessons I have learned in the 21 years that have expired between that day and this.

I have come up with two answers. On this wonderful day when we are gathered together to celebrate your academic success, I have decided to talk to you about the benefits of failure. And as you stand on the threshold of what is sometimes called ‘real life’, I want to extol the crucial importance of imagination.

These may seem quixotic or paradoxical choices, but please bear with me.

Looking back at the 21-year-old that I was at graduation, is a slightly uncomfortable experience for the 42-year-old that she has become. Half my lifetime ago, I was striking an uneasy balance between the ambition I had for myself, and what those closest to me expected of me.

I was convinced that the only thing I wanted to do, ever, was to write novels. However, my parents, both of whom came from impoverished backgrounds and neither of whom had been to college, took the view that my overactive imagination was an amusing personal quirk that would never pay a mortgage, or secure a pension. I know that the irony strikes with the force of a cartoon anvil, now.

So they hoped that I would take a vocational degree; I wanted to study English Literature. A compromise was reached that in retrospect satisfied nobody, and I went up to study Modern Languages. Hardly had my parents’ car rounded the corner at the end of the road than I ditched German and scuttled off down the Classics corridor.

I cannot remember telling my parents that I was studying Classics; they might well have found out for the first time on graduation day. Of all the subjects on this planet, I think they would have been hard put to name one less useful than Greek mythology when it came to securing the keys to an executive bathroom.

I would like to make it clear, in parenthesis, that I do not blame my parents for their point of view. There is an expiry date on blaming your parents for steering you in the wrong direction; the moment you are old enough to take the wheel, responsibility lies with you. What is more, I cannot criticise my parents for hoping that I would never experience poverty. They had been poor themselves, and I have since been poor, and I quite agree with them that it is not an ennobling experience. Poverty entails fear, and stress, and sometimes depression; it means a thousand petty humiliations and hardships. Climbing out of poverty by your own efforts, that is indeed something on which to pride yourself, but poverty itself is romanticised only by fools.

What I feared most for myself at your age was not poverty, but failure.

At your age, in spite of a distinct lack of motivation at university, where I had spent far too long in the coffee bar writing stories, and far too little time at lectures, I had a knack for passing examinations, and that, for years, had been the measure of success in my life and that of my peers.

I am not dull enough to suppose that because you are young, gifted and well-educated, you have never known hardship or heartbreak. Talent and intelligence never yet inoculated anyone against the caprice of the Fates, and I do not for a moment suppose that everyone here has enjoyed an existence of unruffled privilege and contentment.

However, the fact that you are graduating from Harvard suggests that you are not very well-acquainted with failure. You might be driven by a fear of failure quite as much as a desire for success. Indeed, your conception of failure might not be too far from the average person’s idea of success, so high have you already flown.

Ultimately, we all have to decide for ourselves what constitutes failure, but the world is quite eager to give you a set of criteria if you let it. So I think it fair to say that by any conventional measure, a mere seven years after my graduation day, I had failed on an epic scale. An exceptionally short-lived marriage had imploded, and I was jobless, a lone parent, and as poor as it is possible to be in modern Britain, without being homeless. The fears that my parents had had for me, and that I had had for myself, had both come to pass, and by every usual standard, I was the biggest failure I knew.

Now, I am not going to stand here and tell you that failure is fun. That period of my life was a dark one, and I had no idea that there was going to be what the press has since represented as a kind of fairy tale resolution. I had no idea then how far the tunnel extended, and for a long time, any light at the end of it was a hope rather than a reality.

So why do I talk about the benefits of failure? Simply because failure meant a stripping away of the inessential. I stopped pretending to myself that I was anything other than what I was, and began to direct all my energy into finishing the only work that mattered to me. Had I really succeeded at anything else, I might never have found the determination to succeed in the one arena I believed I truly belonged. I was set free, because my greatest fear had been realised, and I was still alive, and I still had a daughter whom I adored, and I had an old typewriter and a big idea. And so rock bottom became the solid foundation on which I rebuilt my life.

You might never fail on the scale I did, but some failure in life is inevitable. It is impossible to live without failing at something, unless you live so cautiously that you might as well not have lived at all – in which case, you fail by default.

Failure gave me an inner security that I had never attained by passing examinations. Failure taught me things about myself that I could have learned no other way. I discovered that I had a strong will, and more discipline than I had suspected; I also found out that I had friends whose value was truly above the price of rubies.

The knowledge that you have emerged wiser and stronger from setbacks means that you are, ever after, secure in your ability to survive. You will never truly know yourself, or the strength of your relationships, until both have been tested by adversity. Such knowledge is a true gift, for all that it is painfully won, and it has been worth more than any qualification I ever earned.

So given a Time Turner, I would tell my 21-year-old self that personal happiness lies in knowing that life is not a check-list of acquisition or achievement. Your qualifications, your CV, are not your life, though you will meet many people of my age and older who confuse the two. Life is difficult, and complicated, and beyond anyone’s total control, and the humility to know that will enable you to survive its vicissitudes.

Now you might think that I chose my second theme, the importance of imagination, because of the part it played in rebuilding my life, but that is not wholly so. Though I personally will defend the value of bedtime stories to my last gasp, I have learned to value imagination in a much broader sense. Imagination is not only the uniquely human capacity to envision that which is not, and therefore the fount of all invention and innovation. In its arguably most transformative and revelatory capacity, it is the power that enables us to empathise with humans whose experiences we have never shared.

One of the greatest formative experiences of my life preceded Harry Potter, though it informed much of what I subsequently wrote in those books. This revelation came in the form of one of my earliest day jobs. Though I was sloping off to write stories during my lunch hours, I paid the rent in my early 20s by working at the African research department at Amnesty International’s headquarters in London.

There in my little office I read hastily scribbled letters smuggled out of totalitarian regimes by men and women who were risking imprisonment to inform the outside world of what was happening to them. I saw photographs of those who had disappeared without trace, sent to Amnesty by their desperate families and friends. I read the testimony of torture victims and saw pictures of their injuries. I opened handwritten, eye-witness accounts of summary trials and executions, of kidnappings and rapes.

Many of my co-workers were ex-political prisoners, people who had been displaced from their homes, or fled into exile, because they had the temerity to speak against their governments. Visitors to our offices included those who had come to give information, or to try and find out what had happened to those they had left behind.

I shall never forget the African torture victim, a young man no older than I was at the time, who had become mentally ill after all he had endured in his homeland. He trembled uncontrollably as he spoke into a video camera about the brutality inflicted upon him. He was a foot taller than I was, and seemed as fragile as a child. I was given the job of escorting him back to the Underground Station afterwards, and this man whose life had been shattered by cruelty took my hand with exquisite courtesy, and wished me future happiness.

And as long as I live I shall remember walking along an empty corridor and suddenly hearing, from behind a closed door, a scream of pain and horror such as I have never heard since. The door opened, and the researcher poked out her head and told me to run and make a hot drink for the young man sitting with her. She had just had to give him the news that in retaliation for his own outspokenness against his country’s regime, his mother had been seized and executed.

Every day of my working week in my early 20s I was reminded how incredibly fortunate I was, to live in a country with a democratically elected government, where legal representation and a public trial were the rights of everyone.

Every day, I saw more evidence about the evils humankind will inflict on their fellow humans, to gain or maintain power. I began to have nightmares, literal nightmares, about some of the things I saw, heard, and read.

And yet I also learned more about human goodness at Amnesty International than I had ever known before.

Amnesty mobilises thousands of people who have never been tortured or imprisoned for their beliefs to act on behalf of those who have. The power of human empathy, leading to collective action, saves lives, and frees prisoners. Ordinary people, whose personal well-being and security are assured, join together in huge numbers to save people they do not know, and will never meet. My small participation in that process was one of the most humbling and inspiring experiences of my life.

Unlike any other creature on this planet, humans can learn and understand, without having experienced. They can think themselves into other people’s places.

Of course, this is a power, like my brand of fictional magic, that is morally neutral. One might use such an ability to manipulate, or control, just as much as to understand or sympathise.

And many prefer not to exercise their imaginations at all. They choose to remain comfortably within the bounds of their own experience, never troubling to wonder how it would feel to have been born other than they are. They can refuse to hear screams or to peer inside cages; they can close their minds and hearts to any suffering that does not touch them personally; they can refuse to know.

I might be tempted to envy people who can live that way, except that I do not think they have any fewer nightmares than I do. Choosing to live in narrow spaces leads to a form of mental agoraphobia, and that brings its own terrors. I think the wilfully unimaginative see more monsters. They are often more afraid.

What is more, those who choose not to empathise enable real monsters. For without ever committing an act of outright evil ourselves, we collude with it, through our own apathy.

One of the many things I learned at the end of that Classics corridor down which I ventured at the age of 18, in search of something I could not then define, was this, written by the Greek author Plutarch: What we achieve inwardly will change outer reality.

That is an astonishing statement and yet proven a thousand times every day of our lives. It expresses, in part, our inescapable connection with the outside world, the fact that we touch other people’s lives simply by existing.

But how much more are you, Harvard graduates of 2008, likely to touch other people’s lives? Your intelligence, your capacity for hard work, the education you have earned and received, give you unique status, and unique responsibilities. Even your nationality sets you apart. The great majority of you belong to the world’s only remaining superpower. The way you vote, the way you live, the way you protest, the pressure you bring to bear on your government, has an impact way beyond your borders. That is your privilege, and your burden.

If you choose to use your status and influence to raise your voice on behalf of those who have no voice; if you choose to identify not only with the powerful, but with the powerless; if you retain the ability to imagine yourself into the lives of those who do not have your advantages, then it will not only be your proud families who celebrate your existence, but thousands and millions of people whose reality you have helped change. We do not need magic to change the world, we carry all the power we need inside ourselves already: we have the power to imagine better.

I am nearly finished. I have one last hope for you, which is something that I already had at 21. The friends with whom I sat on graduation day have been my friends for life. They are my children’s godparents, the people to whom I’ve been able to turn in times of trouble, people who have been kind enough not to sue me when I took their names for Death Eaters. At our graduation we were bound by enormous affection, by our shared experience of a time that could never come again, and, of course, by the knowledge that we held certain photographic evidence that would be exceptionally valuable if any of us ran for Prime Minister.

So today, I wish you nothing better than similar friendships. And tomorrow, I hope that even if you remember not a single word of mine, you remember those of Seneca, another of those old Romans I met when I fled down the Classics corridor, in retreat from career ladders, in search of ancient wisdom:

As is a tale, so is life: not how long it is, but how good it is, is what matters.

I wish you all very good lives.

Thank-you very much.


Nếu bạn không thấy nội dung bài viết được hiển thị. Vui lòng tải về để xem. Nếu thấy hay thì các bạn đừng quên chia sẻ cho bạn bè nhé!