Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Nguyễn Huy Tưởng


1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng

  • Tác giả Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình nho học, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội).
  • Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong các tổ chức văn hóa do Đảng lãng đạo.
  • Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở 2 thể loại: tiểu thuyết và kịch.
  • Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc.
  • Nguyễn Huy Tưởng để lại các tác phẩm như kịch “Vũ Như Tô” (1941), “Bắc Sơn” (1946), “Những người ở lại” (1948); kịch bản phim “Lũy hoa” (1960); tiểu thuyết “Đêm hội Long Trì” (1942), “An Tư” (1945), “Sống mãi với Thủ đô” (1961); “Kí sự Cao - Lạng” (1951).

b. Tác phẩm “Vũ Như Tô”

  • “Vũ Như Tô” là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực.
  • Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941. Từ vở kịch ba hồi đăng trên tạp chí Tri tân năm 1943-1944, Nguyễn Huy Tưởng đã sửa lại thành vở kịch năm hồi.
  • Văn bản “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thuộc hồi thứ V (Một cung cấm) của vở kịch Vũ Như Tô.

2. Đọc - hiểu văn bản

a. Những mâu thuẫn trong đoạn trích

- Mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực.

  • Phe nổi loạn gồm nhiều nhân vật: dân chúng, thợ xây; các nhân vật này đã xuất hiện từ những đoạn trước. Trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, họ chỉ xuất hiện qua lời của Đan Thiềm: Dân gian đói kém nổi lên tứ tung,… khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Các nhân vật này cũng xuất hiện qua lời của tên nội gián: Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch.
  • Phe đối lập trong triều đứng đầu là Trịnh Duy Sản, sau Trịnh Duy Sản là Ngô Hạch, An Hòa Hầu. 

⇒ Mâu thuẫn trong hồi V đạt đến đỉnh điểm và được giải quyết trọn vẹn: Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực. Đây là mâu thuẫn bị chi phối bởi các mâu thuẫn khác. Và đây cũng là mâu thuẫn cơ bản, thâm sâu, căn cốt đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm.

- Mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ:

  • Trịnh Duy Sản coi Kim Phượng và các cung nữ là phương tiện hành lạc của vua Lê Tương Dực, chính vì vậy mâu thuẫn này cũng được đẩy lên đến đỉnh cao.
  • Kim Phượng và các cung nữ đã lái sự căm ghét đó sang Đan Thiềm, Vũ Như Tô để mong thoát tội, mong thoát khỏi sự trừng phạt của phe nổi loạn.

- Mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ thuyền và Vũ như Tô:

  • Một bộ phận lớn thợ xây Cửu Trùng Đài tham gia nổi lọa do bị đói khổ, bị áp bức đến nghẹt thở. Họ oán hận triều đình, oán hận Vũ Như Tô. Họ cho rằng chính ông là thủ phạm.
  • Trong khi đó, Vũ Như Tô say sưa với công trình nghệ thuật, quên cả thực tế lòng dân. Đến khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Vũ Như Tô vẫn cho mình là vô tội, còn muốn chứng minh sự quang minh chính đại của mình, còn hi vọng thuyết phục được An Hòa Hầu.

b. Bi kịch của Vũ Như Tô

  • Là một kiến trúc sư tài ba, sống gắn bó với nhân dân và luôn có khát vọng cao đẹp là điểm tô cho đất nước.
  • Bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi hưởng lạc với các cung nữ. Vũ Như Tô không những không chấp thuận mà còn lớn tiếng chửi mắng hôn quân.
  • Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài, lợi dụng tiền bạc và quyền lực của Lê Tương Dực để xây một tòa lâu đài điểm tô cho đất nước, để nhân dân nghìn sau còn hãnh diện.
  • Vũ Như Tô đã dốc hết tâm huyết, tài năng và sức lực để xây dựng Cửu Trùng Đài. Ông đã cố gắng xây dựng một công trình bền vững như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hóa công.
  • Nhưng đài xây càng cao thì nhân dân càng oán hận. Bởi để hoàn thành công trình, Vũ Như Tô đã cho thu thêm thuế, tróc nã thợ giỏi, giết những người bỏ trốn,…
  • Lợi dụng tình hình đó, quân đối nghịch trong triều đình đã khiêu khích thợ thuyền làm phản. Họ nổi dây giết chết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và đốt phá Cửu Trùng Đài.
  • Bi kịch của Vũ Như Tô chính là mâu thuẫn giữa khát vọng cao đẹp của ông và thực tế xã hội. Ông là người sống gắn bó với nhân dân nhưng chính nhân dân nổi dậy và hủy hoại công trình ông đã dốc tâm sức xây dựng và giết chết ông.
  • Trong khi đó, Vũ Như Tô vẫn còn đắm chìm trong ảo tưởng của mình, ông muốn sống chết cùng Cửu Trùng Đài, vì ông coi đó là lẽ sống của chính mình.
  • Đây là mâu thuẫn giữa con người xã hội và con người nghệ thuật trong Vũ Như Tô. Khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô đã làm cho biết bao mảnh đời phải chịu cảnh lầm than, khốn khó. Có thể nói đó là khát vọng chân chính nhưng đặt không đúng chỗ, không hợp thời, không tính đến giá trị cuộc sống.

⇒ Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là người có tội, vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù đã được giải quyết nhưng không thật thỏa đáng: Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định đưa dân chúng vào chốn lầm than, khi chết ông vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình.

  • Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Nếu nghệ thuật không gắn bó với cuộc đời, không phục vụ cho lợi ích của nhân dân thì nó chẳng khác nào “bông hoa nhuốm đầy máu”, nó đi ngược lại nghệ thuật chân chính.

c. Nhân vật Đan Thiềm

  • Là một con người biết trân trọng cái đẹp, trân trọng người tài: Thuyết phục vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để điểm tô cho đất nước; thuyết phục Vũ Như Tô bỏ trốn để bảo toàn tính mạng trong cơn biến loạn.
  • Chính tấm lòng trân trọng người tài đã đẩy Đan Thiềm vào bi kịch. Bi kịch của Đan Thiềm cũng nảy sinh từ mâu thuẫn giữa khát vọng và hiện thực: Thuyết phục Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là Đan Thiềm đã có tội với nhân dân, nàng đã trở thành “thủ phạm” đẩy nhân dân rơi vào cơn khốn đốn.
  • Cuối cùng Đan Thiềm cũng bị giết chết cùng với khát vọng còn dang dở.

Tổng kết

  • Nội dung

    • Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm những quan niệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời: Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ và đời sống của nhân dân, vận mệnh của dân tộc.
  • Đặc sắc nghệ thuật

    • Đoạn trích thể hiện rất rõ đặc sắc nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ và hành động để khắc họa tính cách nhân vật. Đoạn trích còn thể hiện được tài dẫn dắt và đẩy xung đột kịch lên cao của tác giả. Cách giải quyết mâu thuẫn một cách tài tình.

Ví dụ:

Đề: Phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô qua đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng

Gợi ý làm bài:

Dưới đây là dàn bài gợi ý:

a. Mở bài
  • Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (Hà Nội).
  • Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc.
  • “Vũ Như Tô” là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng được viết năm 1941, dựa trên một sự kiện có thật trong lịch sử xảy ra tại kinh thành Thăng Long vào thời Hậu Lê. Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
b. Thân bài

- Những nét chung 

  • Tóm tắt tác phẩm
    • Vũ Như Tô – một kiến trúc sư thiên tài bị  vua Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết. Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
    • Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hoá công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng toà lâu đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai hoạ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì tai nạn, vì ông chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa, truỵ lạc với dân chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
    • Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đập phá và thiêu huỷ (hồi V).
  • Vị trí và nội dung đoạn trích
    • Đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi V của vở kịch, thể hiện tài năng trong nghệ thuật viết kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
    • Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là Cửu Trùng Đài – sinh mạng nghệ thuật của cả đời ông.

- Phân tích bi kịch

  • Vũ Như Tô là một nghệ sĩ tài hoa, chân chính, gắn bó với nhân dân
    • Tài năng của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là “một thiên tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân.”
    • Khi vua Lê Tương Dực yêu cầu xây Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ, mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết. Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài.
    • Rõ ràng, là một nghệ sĩ chân chính, ông hiểu rất rõ trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với nhân dân. Ông không hề khuất phục trước cường quyền, bạo ngược. Tuy vậy Vũ Như Tô vẫn rơi vào bi kịch.
  • Vũ Như Tô luôn sống với niềm khao khát và đam mê sáng tạo cái Đẹp
    • Trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải dối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
    • Tuy vậy, nguyên nhân sâu xa của bi kịch chính là trong xã hội cũ, người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo, không thể thi thố tài năng. Vì thế, khi Đan Thiềm thuyết phục có thể mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực để thực hiện được hoài bão của mình thì Vũ Như Tô đã chấp nhận. Điều này cũng xuất phát từ khát vọng cao cả của ông là điểm tô cho đất nước. Tuy vậy, vì khao khát quá lớn nên Vũ Như Tô chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện.
    • Cho nên đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu Trùng Đài đã trở thành đại họa, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội.
  • Vũ Như Tô chìm đắm trong khát khao, đam mê cái Đẹp mà trở nên mơ mộng và ảo tưởng
    • Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu. Ngay cả khi sự thật phũ phàng của cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là “loạn đến nơi rồi” và bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: “Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông…” mà Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
    • Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, tên nội giám thông báo kẻ phá, người đốt Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô lí. Nghe tiếng quân reo hò tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận và cuộc đời: “Có lí gì để họ giết tôi?” Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo sáng lòa, Vũ Như Tô tự trấn an: “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một toà đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ.” Bị ra lệnh dẫn về gặp chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải “cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta." Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của quân lính: “Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ”. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: “Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai”,…
    • Chỉ đến khi kinh thành phát hoả, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hoà Hầu và tận mắt chứng kiến “ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào.” Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng. Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài! Tất cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương, tang tóc. Nỗi đau mất mát đã hoà làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm thanh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
    • Khắc khoải trong lòng người đọc, người xem vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như Tô. Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

- Đánh giá

  • Ngôn ngữ kịch trong đoạn trích hàm súc và giàu ý nghĩa. Diễn biến kịch xảy ra rất nhanh trong nhịp điệu bão tố. Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp. Tiếng reo, tiếng thét liên tục vang ra từ hậu trường góp phần tạo nên một không gian đầy bạo lực kinh hoàng, một bức tranh bi tráng. Việc đặt nhân vật trong không gian một cung cấm với các tên đất, tên người cụ thể ít nhiều có yếu tố lịch sử làm cho vở kịch đậm không khí của hiện thực thời đại.
c. Kết bài
  • Cái Đẹp mà Vũ Như Tô có thể tạo ra chỉ là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. Chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia thuộc về đời sống dân chúng.
  • Thái độ nhà văn chủ yếu là trân trọng Cái Tài, khâm phục hoài bão nghệ thuật to lớn và thông cảm với bi kịch của Vũ Như Tô, chứ không phải là thái độ ca ngợi một chiều. Trong vở kịch có những chỗ Nguyễn Huy Tưởng đã không đồng tình với nhân vật của mình, mặc dù Vũ Như Tô được khẳng định là thiên tài ngàn năm có một.

1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng

  • Tác giả Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình nho học, quê ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội).
  • Ông sớm tham gia cách mạng, hoạt động trong các tổ chức văn hóa do Đảng lãng đạo.
  • Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở 2 thể loại: tiểu thuyết và kịch.
  • Văn phong của ông vừa giản dị, trong sáng, vừa đôn hậu, thâm trầm, sâu sắc.
  • Nguyễn Huy Tưởng để lại các tác phẩm như kịch “Vũ Như Tô” (1941), “Bắc Sơn” (1946), “Những người ở lại” (1948); kịch bản phim “Lũy hoa” (1960); tiểu thuyết “Đêm hội Long Trì” (1942), “An Tư” (1945), “Sống mãi với Thủ đô” (1961); “Kí sự Cao - Lạng” (1951).

b. Tác phẩm “Vũ Như Tô”

  • “Vũ Như Tô” là vở bi kịch lịch sử năm hồi viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực.
  • Tác phẩm được Nguyễn Huy Tưởng viết xong vào mùa hè năm 1941. Từ vở kịch ba hồi đăng trên tạp chí Tri tân năm 1943-1944, Nguyễn Huy Tưởng đã sửa lại thành vở kịch năm hồi.
  • Văn bản “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” thuộc hồi thứ V (Một cung cấm) của vở kịch Vũ Như Tô.

2. Đọc - hiểu văn bản

a. Những mâu thuẫn trong đoạn trích

- Mâu thuẫn giữa phe nổi loạn và phe Lê Tương Dực.

  • Phe nổi loạn gồm nhiều nhân vật: dân chúng, thợ xây; các nhân vật này đã xuất hiện từ những đoạn trước. Trong đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, họ chỉ xuất hiện qua lời của Đan Thiềm: Dân gian đói kém nổi lên tứ tung,… khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Các nhân vật này cũng xuất hiện qua lời của tên nội gián: Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch.
  • Phe đối lập trong triều đứng đầu là Trịnh Duy Sản, sau Trịnh Duy Sản là Ngô Hạch, An Hòa Hầu. 

⇒ Mâu thuẫn trong hồi V đạt đến đỉnh điểm và được giải quyết trọn vẹn: Trịnh Duy Sản, Ngô Hạch giết chết Lê Tương Dực. Đây là mâu thuẫn bị chi phối bởi các mâu thuẫn khác. Và đây cũng là mâu thuẫn cơ bản, thâm sâu, căn cốt đẩy xung đột lên đến đỉnh điểm.

- Mâu thuẫn giữa phe Trịnh Duy Sản với Kim Phượng và các cung nữ:

  • Trịnh Duy Sản coi Kim Phượng và các cung nữ là phương tiện hành lạc của vua Lê Tương Dực, chính vì vậy mâu thuẫn này cũng được đẩy lên đến đỉnh cao.
  • Kim Phượng và các cung nữ đã lái sự căm ghét đó sang Đan Thiềm, Vũ Như Tô để mong thoát tội, mong thoát khỏi sự trừng phạt của phe nổi loạn.

- Mâu thuẫn giữa nhân dân, thợ thuyền và Vũ như Tô:

  • Một bộ phận lớn thợ xây Cửu Trùng Đài tham gia nổi lọa do bị đói khổ, bị áp bức đến nghẹt thở. Họ oán hận triều đình, oán hận Vũ Như Tô. Họ cho rằng chính ông là thủ phạm.
  • Trong khi đó, Vũ Như Tô say sưa với công trình nghệ thuật, quên cả thực tế lòng dân. Đến khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, Vũ Như Tô vẫn cho mình là vô tội, còn muốn chứng minh sự quang minh chính đại của mình, còn hi vọng thuyết phục được An Hòa Hầu.

b. Bi kịch của Vũ Như Tô

  • Là một kiến trúc sư tài ba, sống gắn bó với nhân dân và luôn có khát vọng cao đẹp là điểm tô cho đất nước.
  • Bị hôn quân Lê Tương Dực bắt xây Cửu Trùng Đài để làm nơi ăn chơi hưởng lạc với các cung nữ. Vũ Như Tô không những không chấp thuận mà còn lớn tiếng chửi mắng hôn quân.
  • Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài, lợi dụng tiền bạc và quyền lực của Lê Tương Dực để xây một tòa lâu đài điểm tô cho đất nước, để nhân dân nghìn sau còn hãnh diện.
  • Vũ Như Tô đã dốc hết tâm huyết, tài năng và sức lực để xây dựng Cửu Trùng Đài. Ông đã cố gắng xây dựng một công trình bền vững như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hóa công.
  • Nhưng đài xây càng cao thì nhân dân càng oán hận. Bởi để hoàn thành công trình, Vũ Như Tô đã cho thu thêm thuế, tróc nã thợ giỏi, giết những người bỏ trốn,…
  • Lợi dụng tình hình đó, quân đối nghịch trong triều đình đã khiêu khích thợ thuyền làm phản. Họ nổi dây giết chết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm và đốt phá Cửu Trùng Đài.
  • Bi kịch của Vũ Như Tô chính là mâu thuẫn giữa khát vọng cao đẹp của ông và thực tế xã hội. Ông là người sống gắn bó với nhân dân nhưng chính nhân dân nổi dậy và hủy hoại công trình ông đã dốc tâm sức xây dựng và giết chết ông.
  • Trong khi đó, Vũ Như Tô vẫn còn đắm chìm trong ảo tưởng của mình, ông muốn sống chết cùng Cửu Trùng Đài, vì ông coi đó là lẽ sống của chính mình.
  • Đây là mâu thuẫn giữa con người xã hội và con người nghệ thuật trong Vũ Như Tô. Khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô đã làm cho biết bao mảnh đời phải chịu cảnh lầm than, khốn khó. Có thể nói đó là khát vọng chân chính nhưng đặt không đúng chỗ, không hợp thời, không tính đến giá trị cuộc sống.

⇒ Trong việc xây dựng Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vừa là người có tội, vừa là nạn nhân. Diễn biến mâu thuẫn trong con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm mặc dù đã được giải quyết nhưng không thật thỏa đáng: Vũ Như Tô bị giết mặc dù trong thâm tâm ông không hề có ý định đưa dân chúng vào chốn lầm than, khi chết ông vẫn chưa nhận ra sai lầm của mình.

  • Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã khẳng định mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Nếu nghệ thuật không gắn bó với cuộc đời, không phục vụ cho lợi ích của nhân dân thì nó chẳng khác nào “bông hoa nhuốm đầy máu”, nó đi ngược lại nghệ thuật chân chính.

c. Nhân vật Đan Thiềm

  • Là một con người biết trân trọng cái đẹp, trân trọng người tài: Thuyết phục vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài để điểm tô cho đất nước; thuyết phục Vũ Như Tô bỏ trốn để bảo toàn tính mạng trong cơn biến loạn.
  • Chính tấm lòng trân trọng người tài đã đẩy Đan Thiềm vào bi kịch. Bi kịch của Đan Thiềm cũng nảy sinh từ mâu thuẫn giữa khát vọng và hiện thực: Thuyết phục Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là Đan Thiềm đã có tội với nhân dân, nàng đã trở thành “thủ phạm” đẩy nhân dân rơi vào cơn khốn đốn.
  • Cuối cùng Đan Thiềm cũng bị giết chết cùng với khát vọng còn dang dở.

Tổng kết

  • Nội dung

    • Thông qua bi kịch của Vũ Như Tô, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng đã gửi gắm những quan niệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời: Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa khát vọng nghệ thuật của người nghệ sĩ và đời sống của nhân dân, vận mệnh của dân tộc.
  • Đặc sắc nghệ thuật

    • Đoạn trích thể hiện rất rõ đặc sắc nghệ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ và hành động để khắc họa tính cách nhân vật. Đoạn trích còn thể hiện được tài dẫn dắt và đẩy xung đột kịch lên cao của tác giả. Cách giải quyết mâu thuẫn một cách tài tình.

Ví dụ:

Đề: Phân tích bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô qua đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” trích “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng

Gợi ý làm bài:

Dưới đây là dàn bài gợi ý:

a. Mở bài
  • Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) xuất thân trong một gia đình Nho giáo ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (Hà Nội).
  • Trong sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác đề tài lịch sử và có đóng góp nổi bật ở các thể loại tiểu thuyết và kịch. Văn phong của ông giản dị, trong sáng và thâm trầm, sâu sắc.
  • “Vũ Như Tô” là vở kịch đặc sắc của Nguyễn Huy Tưởng được viết năm 1941, dựa trên một sự kiện có thật trong lịch sử xảy ra tại kinh thành Thăng Long vào thời Hậu Lê. Qua tấn bi kịch của Vũ Như Tô, tác giả đặt ra những vấn đề sâu sắc, có ý nghĩa muôn thuở về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật muôn đời với lợi ích thiết thân và trực tiếp của nhân dân.
b. Thân bài

- Những nét chung 

  • Tóm tắt tác phẩm
    • Vũ Như Tô – một kiến trúc sư thiên tài bị  vua Lê Tương Dực bắt xây dựng Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ. Vốn là một nghệ sĩ chân chính gắn bó với nhân dân, cho nên mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết. Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài (hồi I).
    • Đan Thiềm, một cung nữ đã thuyết phục Vũ Như Tô chấp nhận yêu cầu của Lê Tương Dực, lợi dụng quyền thế và tiền bạc của hắn, trổ hết tài năng để xây dựng cho đất nước một toà lâu đài vĩ đại “bền như trăng sao, có thể tranh tinh xảo với hoá công để cho dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Theo lời khuyên, Vũ Như Tô đã thay đổi thái độ, chấp nhận xây Cửu Trùng Đài. Từ đó, ông dồn hết tâm trí và bằng mọi giá xây dựng toà lâu đài sao cho thật hùng vĩ, tráng lệ. Tuy nhiên, ông đã vô tình gây biết bao tai hoạ cho nhân dân. Để xây dựng Cửu Trùng Đài, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Dân căm phẫn vua vì vua làm cho dân cùng, nước kiệt; thợ oán Vũ Như Tô bởi nhiều người đã chết vì tai nạn, vì ông chém đầu những kẻ chạy trốn. Công cuộc xây dựng càng gần thành công thì mâu thuẫn giữa tập đoàn thống trị xa hoa, truỵ lạc với dân chúng nghèo khổ, giữa Vũ Như Tô với những người thợ lành nghề và người lao động mà ông hằng yêu mến càng căng thẳng, gay gắt (hồi II, III, IV).
    • Lợi dụng tình hình rối ren và mâu thuẫn ấy, Quận công Trịnh Duy Sản – kẻ cầm đầu phe đối lập trong triều đình đã dấy binh nổi loạn, lôi kéo thợ làm phản, giết vua Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan Thiềm. Cửu Trùng Đài bị chính những người thợ đập phá và thiêu huỷ (hồi V).
  • Vị trí và nội dung đoạn trích
    • Đoạn “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi V của vở kịch, thể hiện tài năng trong nghệ thuật viết kịch của Nguyễn Huy Tưởng: ngôn ngữ điêu luyện, có tính tổng hợp cao; dùng ngôn ngữ, hành động của nhân vật để khắc hoạ tính cách, miêu tả tâm trạng, dẫn dắt và đẩy xung đột kịch đến cao trào.
    • Vũ Như Tô và Đan Thiềm coi Cửu Trùng Đài là cả phần xác lẫn phần hồn của cuộc đời mình. Vì nó mà Vũ Như Tô chấp nhận làm việc cho hôn quân bạo chúa. Vì nó mà dù bị thương trên công trường, ông vẫn tiếp tục chỉ đạo công việc. Cũng vì nó, ông buộc phải trị tội những người thợ bỏ trốn. Cũng lại vì nó mà ông quyết ở lại trong cung cấm, giữa cơn biến loạn để bảo vệ không phải mạng sống của mình mà là Cửu Trùng Đài – sinh mạng nghệ thuật của cả đời ông.

- Phân tích bi kịch

  • Vũ Như Tô là một nghệ sĩ tài hoa, chân chính, gắn bó với nhân dân
    • Tài năng của Vũ Như Tô được nói đến chủ yếu ở các hồi kịch trước, thông qua hành động của ông và nhất là qua lời của các nhân vật khác nói về ông. Tài nghệ của ông đạt đến mức siêu phàm, được Đan Thiềm ca ngợi là “một thiên tài ngàn năm chưa dễ có một, có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân.”
    • Khi vua Lê Tương Dực yêu cầu xây Cửu Trùng Đài để làm nơi hưởng lạc, vui chơi với các cung nữ, mặc dù bị Lê Tương Dực doạ giết. Vũ Như Tô vẫn ngang nhiên chửi mắng tên hôn quân ấy và kiên quyết từ chối xây Cửu Trùng Đài.
    • Rõ ràng, là một nghệ sĩ chân chính, ông hiểu rất rõ trách nhiệm của người nghệ sĩ đối với nhân dân. Ông không hề khuất phục trước cường quyền, bạo ngược. Tuy vậy Vũ Như Tô vẫn rơi vào bi kịch.
  • Vũ Như Tô luôn sống với niềm khao khát và đam mê sáng tạo cái Đẹp
    • Trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, thì Cái Đẹp ấy thành ra phù phiếm. Nó sang trọng và đẫm máu như một bông hoa ác. Vì thế, đi đến tận cùng niềm đam mê, khao khát ấy, Vũ Như Tô tất phải dối mặt với bi kịch đau đớn của đời mình. Ông trở thành kẻ thù của dân chúng, thợ thuyền mà không hay biết.
    • Tuy vậy, nguyên nhân sâu xa của bi kịch chính là trong xã hội cũ, người nghệ sĩ thiên tài không có điều kiện sáng tạo, không thể thi thố tài năng. Vì thế, khi Đan Thiềm thuyết phục có thể mượn tay bạo chúa Lê Tương Dực để thực hiện được hoài bão của mình thì Vũ Như Tô đã chấp nhận. Điều này cũng xuất phát từ khát vọng cao cả của ông là điểm tô cho đất nước. Tuy vậy, vì khao khát quá lớn nên Vũ Như Tô chỉ đứng trên lập trường của người nghệ sĩ mà không đứng trên lập trường của nhân dân, đứng trên lập trường cái Đẹp mà không đứng trên lập trường Cái Thiện.
    • Cho nên đài càng xây cao, mạng người càng rẻ mạt, dân chúng càng điêu đứng, bọn hôn quân bạo chúa càng ra tay vơ vét. Cửu Trùng Đài đã trở thành đại họa, gây ra bao khốn khổ điêu linh, thành hiện thân cho thói xa hoa hưởng lạc trên xương máu của nhân dân. Và tất nhiên, trong mắt nhân dân, Vũ Như Tô trở thành kẻ thù phải đền tội.
  • Vũ Như Tô chìm đắm trong khát khao, đam mê cái Đẹp mà trở nên mơ mộng và ảo tưởng
    • Giấc mộng ấy bắt đầu từ khi ông quyết định nhận lời xây Cửu Trùng Đài cho Lê Tương Dực, mượn tay bạo chúa để xây một công trình tô điểm cho đời. Càng sáng suốt trong sáng tạo thiết kế, thi công Cửu Trùng Đài bao nhiêu, Vũ Như Tô càng xa rời thực tế bấy nhiêu. Ngay cả khi sự thật phũ phàng của cơn biến loạn dội đến, Đan Thiềm cố gắng kéo ông ra khỏi giấc mộng bằng thông tin kinh hoàng là “loạn đến nơi rồi” và bằng phản ứng dữ dội của dân chúng đối với ông: “Ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông…” mà Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn cho là họ hiểu nhầm.
    • Tận mắt chứng kiến Nguyễn Vũ tự sát, tên nội giám thông báo kẻ phá, người đốt Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vẫn cho là điều vô lí. Nghe tiếng quân reo hò tìm mình để phanh thây, Vũ Như Tô vẫn cố đấu lí với số phận và cuộc đời: “Có lí gì để họ giết tôi?” Đứng trước quân khởi loạn gươm giáo sáng lòa, Vũ Như Tô tự trấn an: “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một toà đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ.” Bị ra lệnh dẫn về gặp chủ tướng, Vũ Như Tô vẫn hi vọng sẽ có thể phân trần giảng giải “cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta." Ông dường như không hề nghe thấy tiếng cười ầm ĩ và lời quát tháo của quân lính: “Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư? Người ta oán mày còn hơn oán quỷ”. Ông vẫn say sưa trong giấc mộng Cửu Trùng Đài: “Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai”,…
    • Chỉ đến khi kinh thành phát hoả, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hoà Hầu và tận mắt chứng kiến “ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào.” Vũ Như Tô mới rú lên kinh hoàng, tuyệt vọng. Vũ Như Tô đã chết trước khi ra pháp trường. Mộng lớn, Đan Thiềm, Cửu Trùng Đài! Tất cả nối tiếp nhau dội xuống những âm thanh của đau thương, tang tóc. Nỗi đau mất mát đã hoà làm một, trở nên tột cùng. Âm thanh ấy trở thành âm thanh chủ đạo dội ngược lên toàn bộ các hồi trước của vở kịch.
    • Khắc khoải trong lòng người đọc, người xem vẫn là những dấu chấm hỏi, những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm của cảm xúc, từ cao trào của xung đột trong Vũ Như Tô. Bi kịch Vũ Như Tô đã thức tỉnh ý thức của chúng ta về vấn đề muôn thuở: mối quan hệ hữu cơ giữa nghệ thuật và cuộc sống.

- Đánh giá

  • Ngôn ngữ kịch trong đoạn trích hàm súc và giàu ý nghĩa. Diễn biến kịch xảy ra rất nhanh trong nhịp điệu bão tố. Các lớp kịch ngắn, thay đổi liên tục, lời thoại gấp gáp. Tiếng reo, tiếng thét liên tục vang ra từ hậu trường góp phần tạo nên một không gian đầy bạo lực kinh hoàng, một bức tranh bi tráng. Việc đặt nhân vật trong không gian một cung cấm với các tên đất, tên người cụ thể ít nhiều có yếu tố lịch sử làm cho vở kịch đậm không khí của hiện thực thời đại.
c. Kết bài
  • Cái Đẹp mà Vũ Như Tô có thể tạo ra chỉ là tuyệt mĩ mà không tuyệt thiện. Chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia thuộc về đời sống dân chúng.
  • Thái độ nhà văn chủ yếu là trân trọng Cái Tài, khâm phục hoài bão nghệ thuật to lớn và thông cảm với bi kịch của Vũ Như Tô, chứ không phải là thái độ ca ngợi một chiều. Trong vở kịch có những chỗ Nguyễn Huy Tưởng đã không đồng tình với nhân vật của mình, mặc dù Vũ Như Tô được khẳng định là thiên tài ngàn năm có một.

Bài học bổ sung