Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh


1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả Hoài Thanh 

- Hoài Thanh (1909-1982)

- Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.

- Quê: Nghi trung, Nghi Lộc, Nghệ An.

- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo. Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học.

- Các tác phẩm chính:

Trước cách mạng:

  • Cuốn Văn chương và hành động (1936).
  • Cuốn Thi nhân Việt Nam (Năm 1941 - 1944):

Sau cách mạng:

  • Có một nền văn hóa VN (1946).
  • Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949).
  • Nói chuyện thơ kháng chiến (1951).
  • Tuyển tập Hoài Thanh (Tập I - 1982; Tập II - 1983).
  • Hoài Thanh có biệt tài trong thẩm thơ, ông “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

- Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế, tài hoa và luôn thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh

⇒ Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học nghệ thuật.

b. Văn bản

- Xuất xứ:

  • Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển “Thi Nhân việt nam”, là phần cuối của tiểu luận “một thời đại trong thi ca”.

- Chủ đề:

  • Văn bản nghị luận về một vấn đề văn học.

- Nội dung:

  • Tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.

- Bố cục:

  • Gồm 3 phần
    • Phần 1. "Từ đầu...nhìn vào cái đại thể": Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới.
    • Phần 2. "Cứ đại thể...hồn ta cùng Huy Cận": Tinh thần thơ mới: chữ tôi.
    • Phần 3. Còn lại: Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

2. Đọc - hiểu văn bản

a. Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới

- Khó khăn

  • Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra.
    • Luận điểm:"Trời đất không phải dựng lên cùng một lần...hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ".
  • Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.
    • Luận điểm: "Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào".

- Nhận xét: Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

- Nguyên tắc xác định

  • Phương pháp so sánh:
    • ​Sánh bài hay với bài hay, không căn cứ vào bài dở.
  • Cái nhìn biện chứng, nhiều chiều, không phiến diện:
    • Nhìn vào đại thể, không nhìn vào cục bộ. 

- Nhận xét: Nguyên tắc ấy có sức thuyết phục, khách quan, đúng đắn. Bởi vì:

  • Cái dở thời nào cũng có nó chẳng tiêu biểu gì hết, nó cũng không đủ tư cách đại diện cho thời đại và nghệ thuật luôn có sự tiếp nối giữa cái cũ và cái mớ.
  • Đồng thời nhìn nhận đánh giá phải nhìn nhận toàn diện.

b. Tinh thần thơ mới

  • Tinh thần thơ mới bao gồm trong chữ "tôi"
    • Bản chất chữ "tôi": Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (Cái nghĩa tuyệt đối của nó).
    • Hành trình: chập chững, lạ lẫm - được quen biết - được cho là đáng thương và tội nghiệp.

- Nhận xét:

  • Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc.
  • Thơ mới là tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.
  • Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều :
    • Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.
    • Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.
    • Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để nhận định : Lịch sử xuất hiện, lịch sử phát triển, lịch sử tiếp nhận...

c. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái "tôi" và bi kịch của nó

- Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp

  • Mất cốt cách hiên ngang : không có  khí phách ngang tàng như Lí Bạch,  không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
  • Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.
  • Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.

→ Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn). Lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.

- Các hướng mà nhà Thơ mới đào sâu

  • Thế Lữ: Thoát lên tiên.
  • Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên: Điên cuồng.
  • Xuân Diệu: Say đắm.
  • Huy Cận: Ngẩn ngơ buồn.

→ Tuyệt vọng, càng đi sâu càng lạnh.

- Bi kịch của người thanh niên thời ấy

  • Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới).
  • Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.

- Giải quyết bi kịch

  • Gửi cả vào tiếng việt.
  • Bởi vì:
    • Họ yêu vô cùng thứ tiếng đã chia sẻ buồn vui với cha ông.
    • Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.
    • Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.
    • Họ muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.
    • Họ tin rằng tiếng ta còn, nước ta còn.
    • Họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

Tổng kết

  • Nội dung

    • Chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: cái tôi  và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ.
    • Đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.
  • Nghệ thuật

    • Kết hợp một cách hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.
  • Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ.
    • Kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic. 
    • Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn.

Đề bài: Phân tích đoạn trích "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh.

Dàn bài chi tiết

a. Mở bài

  • Giới thiệu về Hoài Thanh:
    • Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.
  • Giới thiệu về tác phẩm:
    • Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” – một công trình xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiền vấn đề Thơ mới.
  • Giới thiệu về đoạn trích:
    • Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của Thơ mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.

b. Thân bài

Phân tích theo bố cục 3 phần

1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ cũ và Thơ mới: Phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.

- Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là chỉ căn cứ vào cái Hay của đại thể mỗi thời.

- Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới

  • Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.
    • Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu: "Người giai nhân: bến đợi dưới cây/ Tình du khách: thuyền qua không".
    • Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”: "Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ/ Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?"
  • Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:
    • Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.

- Từ đây nhà nghiên cứu đứa ra nguyên tắc nhận diện:

  • Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
  • Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.
  • Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.

2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của Thơ mới.

  • Tinh thần thơ cũ – chữ "ta"
  • Tinh thần thơ mới – chữ "tôi"
    • Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ tôi – ý thức về bản thân.
    • Khi tìm tòi đặc điểm của Thơ mới, tác giả luôn phân tích cái tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái tôi trong quan hệ với cái ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.

3. Khác
Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ "Ta" và chữ "Tôi" trong thơ ca

  • Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân
  • Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.

→ Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái "Ta" lấn át nên cái "Tôi" không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.

  • Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:
    • Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.
    • Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.
  • Nhận xét lập luận
    • Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.

Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó

  • Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:
    • Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.
    • Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thót nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ… Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
  • Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.
  • Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lí giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh…
  • Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
    • Thoát lên tiên – Động tiên đã khép
    • Phong lưu trong trường tình – Tình yêu không bền
    • Điên cuồng – Điên cuồng rồi tỉnh
    • Đắm say – Say đắm bơ vơ

→ Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.

c. Kết bài

Bài tiểu luận hấp dấn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

1. Tìm hiểu chung

a. Tác giả Hoài Thanh 

- Hoài Thanh (1909-1982)

- Tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.

- Quê: Nghi trung, Nghi Lộc, Nghệ An.

- Xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo. Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học.

- Các tác phẩm chính:

Trước cách mạng:

  • Cuốn Văn chương và hành động (1936).
  • Cuốn Thi nhân Việt Nam (Năm 1941 - 1944):

Sau cách mạng:

  • Có một nền văn hóa VN (1946).
  • Quyền sống của con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949).
  • Nói chuyện thơ kháng chiến (1951).
  • Tuyển tập Hoài Thanh (Tập I - 1982; Tập II - 1983).
  • Hoài Thanh có biệt tài trong thẩm thơ, ông “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”.

- Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế, tài hoa và luôn thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh

⇒ Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 2000 được tặng giải thưởng Hồ Chi Minh về văn học nghệ thuật.

b. Văn bản

- Xuất xứ:

  • Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển “Thi Nhân việt nam”, là phần cuối của tiểu luận “một thời đại trong thi ca”.

- Chủ đề:

  • Văn bản nghị luận về một vấn đề văn học.

- Nội dung:

  • Tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới.

- Bố cục:

  • Gồm 3 phần
    • Phần 1. "Từ đầu...nhìn vào cái đại thể": Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới.
    • Phần 2. "Cứ đại thể...hồn ta cùng Huy Cận": Tinh thần thơ mới: chữ tôi.
    • Phần 3. Còn lại: Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

2. Đọc - hiểu văn bản

a. Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới

- Khó khăn

  • Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra.
    • Luận điểm:"Trời đất không phải dựng lên cùng một lần...hôm nay phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ".
  • Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.
    • Luận điểm: "Khốn nỗi cái tầm thường cái lố lăng chẳng phải của riêng thời nào".

- Nhận xét: Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

- Nguyên tắc xác định

  • Phương pháp so sánh:
    • ​Sánh bài hay với bài hay, không căn cứ vào bài dở.
  • Cái nhìn biện chứng, nhiều chiều, không phiến diện:
    • Nhìn vào đại thể, không nhìn vào cục bộ. 

- Nhận xét: Nguyên tắc ấy có sức thuyết phục, khách quan, đúng đắn. Bởi vì:

  • Cái dở thời nào cũng có nó chẳng tiêu biểu gì hết, nó cũng không đủ tư cách đại diện cho thời đại và nghệ thuật luôn có sự tiếp nối giữa cái cũ và cái mớ.
  • Đồng thời nhìn nhận đánh giá phải nhìn nhận toàn diện.

b. Tinh thần thơ mới

  • Tinh thần thơ mới bao gồm trong chữ "tôi"
    • Bản chất chữ "tôi": Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (Cái nghĩa tuyệt đối của nó).
    • Hành trình: chập chững, lạ lẫm - được quen biết - được cho là đáng thương và tội nghiệp.

- Nhận xét:

  • Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc.
  • Thơ mới là tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.
  • Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều :
    • Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.
    • Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.
    • Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để nhận định : Lịch sử xuất hiện, lịch sử phát triển, lịch sử tiếp nhận...

c. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái "tôi" và bi kịch của nó

- Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp

  • Mất cốt cách hiên ngang : không có  khí phách ngang tàng như Lí Bạch,  không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.
  • Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.
  • Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.

→ Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn). Lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.

- Các hướng mà nhà Thơ mới đào sâu

  • Thế Lữ: Thoát lên tiên.
  • Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên: Điên cuồng.
  • Xuân Diệu: Say đắm.
  • Huy Cận: Ngẩn ngơ buồn.

→ Tuyệt vọng, càng đi sâu càng lạnh.

- Bi kịch của người thanh niên thời ấy

  • Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới).
  • Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.

- Giải quyết bi kịch

  • Gửi cả vào tiếng việt.
  • Bởi vì:
    • Họ yêu vô cùng thứ tiếng đã chia sẻ buồn vui với cha ông.
    • Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.
    • Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.
    • Họ muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.
    • Họ tin rằng tiếng ta còn, nước ta còn.
    • Họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

Tổng kết

  • Nội dung

    • Chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: cái tôi  và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ.
    • Đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.
  • Nghệ thuật

    • Kết hợp một cách hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.
  • Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ.
    • Kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic. 
    • Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn.

Đề bài: Phân tích đoạn trích "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh.

Dàn bài chi tiết

a. Mở bài

  • Giới thiệu về Hoài Thanh:
    • Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.
  • Giới thiệu về tác phẩm:
    • Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” – một công trình xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiền vấn đề Thơ mới.
  • Giới thiệu về đoạn trích:
    • Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của Thơ mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.

b. Thân bài

Phân tích theo bố cục 3 phần

1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ cũ và Thơ mới: Phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.

- Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là chỉ căn cứ vào cái Hay của đại thể mỗi thời.

- Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới

  • Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.
    • Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu: "Người giai nhân: bến đợi dưới cây/ Tình du khách: thuyền qua không".
    • Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”: "Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ/ Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?"
  • Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:
    • Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.

- Từ đây nhà nghiên cứu đứa ra nguyên tắc nhận diện:

  • Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.
  • Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.
  • Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.

2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của Thơ mới.

  • Tinh thần thơ cũ – chữ "ta"
  • Tinh thần thơ mới – chữ "tôi"
    • Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ tôi – ý thức về bản thân.
    • Khi tìm tòi đặc điểm của Thơ mới, tác giả luôn phân tích cái tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái tôi trong quan hệ với cái ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.

3. Khác
Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ "Ta" và chữ "Tôi" trong thơ ca

  • Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân
  • Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.

→ Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái "Ta" lấn át nên cái "Tôi" không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.

  • Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:
    • Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.
    • Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.
  • Nhận xét lập luận
    • Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.

Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó

  • Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:
    • Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.
    • Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thót nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ… Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
  • Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.
  • Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lí giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh…
  • Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
    • Thoát lên tiên – Động tiên đã khép
    • Phong lưu trong trường tình – Tình yêu không bền
    • Điên cuồng – Điên cuồng rồi tỉnh
    • Đắm say – Say đắm bơ vơ

→ Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.

c. Kết bài

Bài tiểu luận hấp dấn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Bài học bổ sung