Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu
- 1. Ý nghĩa Kinh Vu Lan
- 2. Nghi thức tụng KINH VU LAN
- CÚNG HƯƠNG
- KỲ NGUYỆN
- TÁN THÁN PHẬT
- QUÁN TƯỞNG
- ĐẢNH LỄ
- TÁN LƯ HƯƠNG
- Chú Ðại Bi
- KỆ KHAI KINH
- Phật nói KINH VU LAN BỒN
- Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
- Tâm Kinh
- Vãng Sanh Thần Chú
- Bài Tán Thán Phật A Di Ðà
- Sám Vu Lan
- Sám Mục Liên
- Hồi Hướng
- Tam Tự Quy
Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu được TimDapAntổng hợp chi tiết trong bài viết dưới đây giúp quý vị có thể thực hiện nghi thức tụng kinh Vu Lan tại nhà trong mùa dịch này.
Mùa Vu lan là mùa báo hiếu ân đức cha mẹ, ngày xá tội vong nhân, để hồi hướng công đức cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của quí vị được siêu sinh, cha mẹ hiện tại được phước báo an lạc thì bản thân các vị phải ăn chay, niệm Phật, thực hành bố thí, cúng dường, in ấn kinh sách Phật, viết chép, trì tụng và thực hành kinh Vu lan - Báo hiếu cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sống thì phải khuyến hoa cha mẹ tu tập, thế mới là cách báo hiếu cao cả nhất.
Vào mùa Vu lan từ mồng 1 đến rằm tháng 7 là tốt nhất! Thời gian tụng, địa điểm tụng tùy ý theo điều kiện của quí vị. Nhà nào chưa thờ Phật thì nên thỉnh Phật về thờ, vì tụng trước bàn thờ Tam Bảo sẽ dễ đi vào chánh niệm. Trường hợp bất đắc dĩ không có ban thờ Phật thì thỉnh một bức ảnh hoặc tượng Phật, Bồ tát, hoặc Tôn giả Mục Kiền Liên nhỏ, thiết tạm một chỗ sạch sẽ, cao ráo, đốt hương, dâng hoa và tụng kinh.
Do hiện nay tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhiều khu vực bị phong tỏa hay thực hiện giãn cách nên quý vị ưu tiên tụng kinh tại nhà tránh tụ tập đông người. Trong bài viết này TimDapAntrình bày đầy đủ và rõ ràng từng phần của bài tụng kinh, dễ dàng cho quý vị thực hiện nghi thức tụng kinh báo hiếu Vu Lan.
1. Ý nghĩa Kinh Vu Lan
Thuật ngữ Vu Lan viết đủ là Vu Lan Bồn là từ dịch âm của người Trung Quốc về chữ Phạn “Ullambana”. Một dịch âm khác nữa là Ô Lam Ba Na, tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này lại không thông dụng trong giới Phật giáo.
Theo quan niệm thông thường, “ullambana” được ngài Trí Húc dịch nghĩa là “giải đảo huyền”, về sau được diễn dịch thành “giải đảo huyền, cứu thống khổ”. Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói, hay giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là “ngược” hay “dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời”, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là “treo”. Như vậy “giải đảo huyền” có nghĩa là “tháo bỏ các cực hình treo ngược của nghiệp xấu” và “cứu thống khổ” là cởi trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ.
Theo tinh thần của Kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sinh là bị sinh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.
2. Nghi thức tụng KINH VU LAN
Trước khi tụng Kinh Vu Lan, ta nên rửa tay, súc miệng cho sạch sẽ và y phục phải trang nghiêm. Khi ngồi, đứng phải giữ thân cho ngay thẳng. Lúc lạy hay quỳ phải giữ thân đoan nghiêm. Miệng tụng đọc âm thanh vừa đủ nghe.
(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng dường.)
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam bảo
Thề trọn đời giữ đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ đề kiên cố
Xa bể khổ vòng mê
Chóng quay về bờ giác.
(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)
KỲ NGUYỆN
Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ, đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ chí thành, cúng dường trì tụng, đem công đức này, nguyện khắp mười phương, ba ngôi Tam- bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ-tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh lạc quốc, ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo. (3 lần, rồi đứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật).
TÁN THÁN PHẬT
Đấng Pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương
Phật bảo hào quang sáng ngời.
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo toạ thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(Xá 1 xá rồi xướng lạy)
ĐẢNH LỄ
Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. (1 lạy)
Nam mô Ta Bà Giáo chủ điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ- tát, Đại Thế Chí Bồ tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)
TÁN LƯ HƯƠNG
Kim lư vừa bén chiên đàn
Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương
Hiện thành mây báu kiết tường
Các Phật rõ biết ngọn hương chí thiền. Pháp thân toàn thể hiện tiền
Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát (3 lần)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Chú Ðại Bi
Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Vòi vọi trên không pháp thẩm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe đặng chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)
Phật nói KINH VU LAN BỒN
Ta từng nghe lời tạc như vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá Vệ thành, Kỳ Thụ viên trung.
Mục Liên mới đặng lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền.
Làm con hiếu hạnh vi tiên,
Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tầm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,
Không uống ăn tiều tụy hình hài.
Mục Liên thấy vậy bi ai,
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu, Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.
Thấy cơm, mẹ rất lo âu.
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt.
Sợ chúng ma cướp giựt của bà.
Cơm đưa chưa đến miệng đà
Hóa thành than lửa, nuốt mà đặng đâu.
Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
Mục Kiền Liên bi cảm xót thương.
Mau mau về đến giảng đường,
Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.
Dầu ông thần lực nhiệm mầu,
Một mình không thể ai cầu đặng đâu.
Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên.
Cùng là các bậc thần kỳ,
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương.
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,
Cũng không phương tế cấp mẹ ngươi.
Muốn cho cứu đặng mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu tế Ta toan giảng nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.
Bèn kêu Mục Thị đến gần,
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi.
Rằm tháng bảy là kỳ tự tứ,
Mười phương Tăng đều dự lễ này.
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Đồ ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu.
Món ăn tinh sạch báu mầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư đại đức mười phương thọ thực,
Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng.
Lại thêm cha mẹ hiện tiền,
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về.
Như người thiền định sơn khê,
Tránh điều phiền não, chăm về thiền na.
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh.
Hoặc người thọ hạ kinh hành,
Chẳng ham quyền quý, ẩn danh lâm tòng.
Hoặc người đặng lục thông tấn phát,
Và những hàng Duyên-giác, Thinh-văn.
Hoặc chư Bồ-tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo đức dày chánh định chân tâm.
Tất cả các bậc Thánh phàm,
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.
Người nào có sắm ra vật thực,
Đặng cúng dường tự tứ Tăng thời.
Hiện tiền phụ mẫu của người,
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
Như còn cha mẹ hiện tiền,
Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng,
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung Người thời tuấn tú hình dung,
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,
Phải tuân theo thể thức sau này:
Trước khi thọ thực đàn chay,
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,
Định tâm thần quán đủ đừng quên.
Cho xong định ý hành thiền,
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.
Khi thọ dụng, nên an vật thực.
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung.
Chư Tăng chú nguyện viên dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng Đồng nhau tỏ dạ vui mừng,
Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn.
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan. Mục Liên bạch với Phật rằng:
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.
Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra.
Như sau đệ tử xuất gia,
Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh.
Độ cha mẹ còn đương tại thế,
Hoặc bảy đời có thể đặng không?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông,
Ta vừa muốn nói con liền hỏi theo.
Thiện nam tử,
Tỳ kheo nam nữ,
Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần,
Tam công, Tể tướng, bá quan,
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần.
Như chí muốn đền ơn cha mẹ,
Hiện tại cùng thất thế tình thâm.
Đến rằm tháng bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về.
Chính ngày ấy Phật đà hoan hỷ,
Phải sắm sanh bá vị cơm canh,
Đựng trong bình bát tinh anh,
Chờ giờ tự tứ chúng Tăng cúng dường.
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi.
Cùng cầu thất thế đồng thì,
Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên.
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp.
Lại xa lìa nạn khổ cực thân.
Môn sanh Phật tử ân cần,
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo.
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng.
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử thiền môn.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.
Mục Liên với bốn ban Phật tử,
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Trước là trả nghĩa sanh thành,
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)
Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ
Diễn Nghĩa
Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường
Bấy giờ Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.
Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.
Ðức A Nan trong lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
Vội vàng xin Phật dạy tường:
“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Người là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,
Ðống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kỉnh người tiền bối
Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.
Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.
Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam.
Ðể cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Ðức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai.
Ngài bèn xin Phật tỏ bày
Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh,
Chớ khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.
Phật mới bảo A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng quằn
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Người có biết cớ sao đen nhẹ
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân.
Thế Tôn mới bảo lời rằng:
Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.
Tháng đầu, thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng là đến kỳ sanh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng đạp quấy lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc
Cũng ví như được bạc được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần
Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay
Thứ tư ăn đắng nuốt cay
Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con
Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con
Thứ sáu, sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê
Ðiều thứ bảy không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền
Thứ tám chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo
Ðiều thứ chín miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm
Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn
Phật lại bảo A Nan nên biết:
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Thì những người ấy đời nào nên thân
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan
Con còn nhỏ phải năng chăm sóc
Ăn đắng cay bùi ngọt phần con
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì
Nằm phía ướt con thì phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Ðến khi vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Cho đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng có thể làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi
Con đau ốm tức thì lo chạy
Dầu tốn hao cách mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an tâm định thần
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo lối hung hăng
Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung
Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ
Nết tập quen làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ quân hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân tìm kế sanh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ vì con
Quên cha quên mẹ tình thâm
Quên xứ quên sở lâu năm không về
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hý mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng
Hay tin dữ, bà con cô bác
Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bệnh đui mù vấn vương
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mài miệt với đồ bất chánh
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng xá bên mình
Trước còn lai vãng viếng thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà
Quên dưỡng dục song thân ơn trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay
Nếu cha mẹ rầy la quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng
Chớ chi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Ðập vào mình, vào mũi vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân
Ðến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng
Bọn ta quả thiệt tội nhơn
Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thù ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình
Phật bèn dụng phạm thinh sáu món
Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe
Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu
Ví có người ơn sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu di
Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu
Ví có người cầm dao thật bén
Mổ bụng ra, rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Ðâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ơn dưỡng dục
Tự treo mình cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan thịt nát chẳng phiền
Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền
Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Ðồng thinh bạch Phật lời rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử
Phải lóng nghe ta chỉ sau này
Các ngươi muốn đáp ơn dày
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam bảo sớm trưa
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ
Thập phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình
Mình còn phải cần chuyên trì giới
Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Khá tua y thử phụng hành đừng sai
Ðược như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay
Sau khi chết bị đầy vào ngục
Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề
Trong ngục này hàng ngày lửa cháy
Ðốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại có chó sắt, rắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau
Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ tháo như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le
Chớ chi đặng chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm chết sống muôn lần
Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây
Sự hành phạt tại A tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành các việc phân trần khoảng trên
Nhứt là phải kinh này in chép
Truyền bá ra cho khắp đông tây
Như ai chép một quyển này
Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn
Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Do theo nguyện lực tùy duyên
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền
Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Khi lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng
Lại phát nguyện thà thân này nát
Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho lưỡi kéo trâu cày
Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên
Ví như bị bá thiên đao kiếm
Khắp thân này đâm chém phân thây
Hoặc như lưới trói thân này
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai
Dầu thân này bị cưa bị chặt
Phân chia ra muôn đoạn rã rời
Ðến trăm ngàn kiếp như vầy
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên
Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh
Ngày sau truyền bá chúng sanh
Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành
Phật mới bảo A Nan nên biết
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"
Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Ðặng đời sau y giáo phụng hành
Sau khi Phật dạy rành rành
Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui
Thảy một lòng vâng theo lời Phật
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Ðồng nhau tựu tại Phật tiền
Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.
Tâm Kinh
Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần
Làu làu một tánh thiên chân
Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm
Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang
Hàng Bồ tát danh Quan tự tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì
Ðộ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, không chung ở một nhà
Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không
Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng
Không tướng y như tượng sắc kia
Thọ tưởng hành thức phân chia
Cũng lại như vậy, tổng về chân không
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chân
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi
Vận tâm ấy không gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí có nào đắc chi
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chư duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn
Tam thế Phật, y đàng Bát nhã
Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng mực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhơn chơn thiệt bất hư
Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:
"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)
Vãng Sanh Thần Chú
Nam mô A Di Ða bà dạ.
Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.
A di rị đa, tỳ ca lan đế.
A di rị đa, tỳ ca lan đa.
Dà di nị, dà dà na.
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
(3 lần)
Bài Tán Thán Phật A Di Ðà
Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán
Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh
Bốn mươi tám nguyện viên thành
Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.
Kim sắc tướng muôn ngàn công đức
Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng
Bạch hào hiển hiện phóng quang
Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.
Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại
Sáng trong ngần tứ đại hải dương
Hào quang hóa Phật không lường
Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.
Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm
Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương
Chí thành thập niệm chiêu chương
Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.
Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)
Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
Sám Vu Lan
Ðệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm vũ huy hoàng
Ðốt hương đảnh lễ
Mười phương tam thế
Phật, Pháp, Thánh Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày gian khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Ðem đường học đạo
Ðệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Ðạo tràng thanh tịnh
Tăng bảo trang nghiêm
Hoặc thừa Tự Tứ
Hoặc hiện tham thiền
Ðầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Ðượm nhuần mưa pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Ðã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các Ðức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)
Sám Mục Liên
Con quỳ lạy Phật Thích Ca
Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên
Lòng con mộ đạo tu hiền
Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.
Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày
Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành
Lục thông đầy đủ nên danh
Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.
Ðền ơn cho bú ẵm bồng
Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian
Thấy vong mẹ khổ muôn vàn
Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.
Mục Liên kêu mẹ khóc la
Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình
Thanh Ðề nhìn thấy con mình
Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.
Con ơi! Mẹ đói trong lòng
Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than
Vội vàng trở lại thế gian
Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.
Và cơm vô miệng nửa chừng
Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than
Mục Liên xem thấy kinh hoàng
Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.
Mẹ ơi! niệm Phật độ mình
Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già
Thích Ca đức Phật phân qua
Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.
Ta truyền cứu tế pháp lành
Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền
Cầu cho phụ mẫu hiện tiền
Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.
Bảy đời phụ mẫu đã qua
Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang
Vui chơi thông thả thanh nhàn
Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.
Sắm cơm trăm món đồ ăn
Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng
Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn
Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.
Những đồ vật quý bông thơm
Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh
Cúng dường Tam bảo cầu kinh
Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.
Cầu cho thí chủ trai đàn
Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền
Thanh Ðề khổ ách hết liền
Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.
Noi gương hiếu thảo đời đời
Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con
Nhai cơm cho bú hao mòn
Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.
Trời cao đất rộng mênh mông
Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn
Tu hành báo tứ trọng ân
Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.
Mục Liên đại hiếu tu hành
Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.
Hồi Hướng
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh
Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
Nguyện dĩ thử công đức
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng sanh
Giai cộng thành Phật đạo.
Tam Tự Quy
Tự quy y Phật,
Xin nguyện chúng sanh,
Thể theo đạo cả,
Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp,
Xin nguyện chúng sanh,
Thấu rõ kinh tạng
Trí tuệ như biển.
Tự quy y Tăng,
Xin nguyện chúng sanh,
Thống lý đại chúng
Hết thảy không ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng
Chú thích:
(1) Đầu, hai tay, hai chân
(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Trên đây Tìm Đáp Án vừa gửi tới bạn đọc bài viết Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu. Bài viết đã cung cấp cho chúng ta thấy được các nghi thức để tụng kinh Vu lan báo hiếu. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu bổ ích nhé.