Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu

Bùi Thế Hiển
Admin 29 Tháng bảy, 2022

Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu được TimDapAntổng hợp chi tiết trong bài viết dưới đây giúp quý vị có thể thực hiện nghi thức tụng kinh Vu Lan tại nhà trong mùa dịch này.

Mùa Vu lan là mùa báo hiếu ân đức cha mẹ, ngày xá tội vong nhân, để hồi hướng công đức cho cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp của quí vị được siêu sinh, cha mẹ hiện tại được phước báo an lạc thì bản thân các vị phải ăn chay, niệm Phật, thực hành bố thí, cúng dường, in ấn kinh sách Phật, viết chép, trì tụng và thực hành kinh Vu lan - Báo hiếu cha mẹ. Nếu cha mẹ còn sống thì phải khuyến hoa cha mẹ tu tập, thế mới là cách báo hiếu cao cả nhất. 

Vào mùa Vu lan từ mồng 1 đến rằm tháng 7 là tốt nhất! Thời gian tụng, địa điểm tụng tùy ý theo điều kiện của quí vị. Nhà nào chưa thờ Phật thì nên thỉnh Phật về thờ, vì tụng trước bàn thờ Tam Bảo sẽ dễ đi vào chánh niệm. Trường hợp bất đắc dĩ không có ban thờ Phật thì thỉnh một bức ảnh hoặc tượng Phật, Bồ tát, hoặc Tôn giả Mục Kiền Liên nhỏ, thiết tạm một chỗ sạch sẽ, cao ráo, đốt hương, dâng hoa và tụng kinh.

Do hiện nay tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhiều khu vực bị phong tỏa hay thực hiện giãn cách nên quý vị ưu tiên tụng kinh tại nhà tránh tụ tập đông người. Trong bài viết này TimDapAntrình bày đầy đủ và rõ ràng từng phần của bài tụng kinh, dễ dàng cho quý vị thực hiện nghi thức tụng kinh báo hiếu Vu Lan.

1. Ý nghĩa Kinh Vu Lan

Thuật ngữ Vu Lan viết đủ là Vu Lan Bồn là từ dịch âm của người Trung Quốc về chữ Phạn “Ullambana”. Một dịch âm khác nữa là Ô Lam Ba Na, tuy tương đối gần âm với chữ Phạn hơn nhưng chữ này lại không thông dụng trong giới Phật giáo.

Theo quan niệm thông thường, “ullambana” được ngài Trí Húc dịch nghĩa là “giải đảo huyền”, về sau được diễn dịch thành “giải đảo huyền, cứu thống khổ”. Giải là động từ có ý nghĩa là cởi trói, hay giải phóng ai ra khỏi một cái ách nào đó. Đảo là “ngược” hay “dốc đầu xuống đất, chân chỏng lên trời”, nhằm ám chỉ cho hình thức nghiêm khắc và đau đớn tột độ của hình phạt. Huyền là “treo”. Như vậy “giải đảo huyền” có nghĩa là “tháo bỏ các cực hình treo ngược của nghiệp xấu” và “cứu thống khổ” là cởi trói ách đau khổ cùng cực của chúng sanh trong các đường dữ.

Theo tinh thần của Kinh Vu Lan, cái khổ nguy khốn nhất của chúng sinh là bị sinh vào cảnh giới quỷ đói. Do đó, tháo gỡ cái cực hình treo ngược là tháo gỡ cái ách bị đày đọa trong cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục.

2. Nghi thức tụng KINH VU LAN

Trước khi tụng Kinh Vu Lan, ta nên rửa tay, súc miệng cho sạch sẽ và y phục phải trang nghiêm. Khi ngồi, đứng phải giữ thân cho ngay thẳng. Lúc lạy hay quỳ phải giữ thân đoan nghiêm. Miệng tụng đọc âm thanh vừa đủ nghe.

(Thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng dường.)

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính

Gởi theo đám mây hương

Phảng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam bảo

Thề trọn đời giữ đạo

Theo tự tánh làm lành

Cùng pháp giới chúng sanh

Cầu Phật từ gia hộ

Tâm Bồ đề kiên cố

Xa bể khổ vòng mê

Chóng quay về bờ giác.

(Xá rồi đọc tiếp bài kỳ nguyện)

KỲ NGUYỆN

Nay chính là ngày chư Tăng kiết hạ, đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ chí thành, cúng dường trì tụng, đem công đức này, nguyện khắp mười phương, ba ngôi Tam- bảo, đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đức tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ-tát, tịnh đức chúng Tăng, từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, cha mẹ nhiều đời của đệ tử, cùng tất cả chúng sanh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sanh lạc quốc, ngưỡng mong oai đức vô cùng xót thương tiếp độ.

Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo. (3 lần, rồi đứng dậy cắm hương và đọc bài kệ Tán Thán Phật).

TÁN THÁN PHẬT

Đấng Pháp vương vô thượng

Ba cõi chẳng ai bằng

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loại

Quy y tròn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

Lưới đế châu ví đạo tràng

Mười phương

Phật bảo hào quang sáng ngời.

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo toạ thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

(Xá 1 xá rồi xướng lạy)

ĐẢNH LỄ

Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. (1 lạy)

Nam mô Ta Bà Giáo chủ điều ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát nhất thiết chư Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)

Nam mô Tây phương An Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ- tát, Đại Thế Chí Bồ tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ-tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát. (1 lạy)

TÁN LƯ HƯƠNG

Kim lư vừa bén chiên đàn

Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương

Hiện thành mây báu kiết tường

Các Phật rõ biết ngọn hương chí thiền. Pháp thân toàn thể hiện tiền

Chứng minh hương nguyện phước liền ban cho.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát (3 lần)

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

Chú Ðại Bi

Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ tát (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.

Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.

Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.

Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Vòi vọi trên không pháp thẩm sâu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu

Con nay nghe đặng chuyên trì niệm

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)

Phật nói KINH VU LAN BỒN

Ta từng nghe lời tạc như vầy:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,

Xá Vệ thành, Kỳ Thụ viên trung.

Mục Liên mới đặng lục thông,

Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.

Công dưỡng dục thâm ân dốc trả Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền.

Làm con hiếu hạnh vi tiên,

Bèn dùng tuệ nhãn dưới trên kiếm tầm.

Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,

Không uống ăn tiều tụy hình hài.

Mục Liên thấy vậy bi ai,

Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.

Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu, Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu.

Thấy cơm, mẹ rất lo âu.

Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.

Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt.

Sợ chúng ma cướp giựt của bà.

Cơm đưa chưa đến miệng đà

Hóa thành than lửa, nuốt mà đặng đâu.

Thấy như vậy âu sầu thê thảm,

Mục Kiền Liên bi cảm xót thương.

Mau mau về đến giảng đường,

Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.

Phật mới bảo rõ ràng căn cội,

Rằng mẹ ông gốc tội rất sâu.

Dầu ông thần lực nhiệm mầu,

Một mình không thể ai cầu đặng đâu.

Lòng hiếu thảo của ông dầu lớn,

Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên.

Cùng là các bậc thần kỳ,

Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương.

Cộng ba cõi sáu phương tụ tập,

Cũng không phương tế cấp mẹ ngươi.

Muốn cho cứu đặng mạng người

Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.

Pháp cứu tế Ta toan giảng nói,

Cho mọi người thoát khỏi ách nàn.

Bèn kêu Mục Thị đến gần,

Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi.

Rằm tháng bảy là kỳ tự tứ,

Mười phương Tăng đều dự lễ này.

Phải toan sắm sửa chớ chầy,

Đồ ăn trăm món, trái cây năm màu.

Lại phải sắm giường nằm nệm lót

Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu.

Món ăn tinh sạch báu mầu

Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.

Chư đại đức mười phương thọ thực,

Trong bảy đời sẽ đặng siêu thăng.

Lại thêm cha mẹ hiện tiền,

Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.

Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,

Dầu ở đâu cũng tụ hội về.

Như người thiền định sơn khê,

Tránh điều phiền não, chăm về thiền na.

Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả,

Công tu hành nguyện thỏa vô sanh.

Hoặc người thọ hạ kinh hành,

Chẳng ham quyền quý, ẩn danh lâm tòng.

Hoặc người đặng lục thông tấn phát,

Và những hàng Duyên-giác, Thinh-văn.

Hoặc chư Bồ-tát mười phương,

Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.

Đều trì giới rất thanh, rất tịnh

Đạo đức dày chánh định chân tâm.

Tất cả các bậc Thánh phàm,

Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.

Người nào có sắm ra vật thực,

Đặng cúng dường tự tứ Tăng thời.

Hiện tiền phụ mẫu của người,

Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.

Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,

Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.

Như còn cha mẹ hiện tiền,

Nhờ đó cũng đặng bá niên thọ trường.

Như cha mẹ bảy đời quá vãng,

Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung Người thời tuấn tú hình dung,

Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.

Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,

Phải tuân theo thể thức sau này:

Trước khi thọ thực đàn chay,

Phải cầu chú nguyện cho người tín gia.

Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,

Định tâm thần quán đủ đừng quên.

Cho xong định ý hành thiền,

Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.

Khi thọ dụng, nên an vật thực.

Trước Phật đài hoặc tự tháp trung.

Chư Tăng chú nguyện viên dung,

Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.

Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,

Mục Liên cùng Bồ-tát chư Tăng Đồng nhau tỏ dạ vui mừng,

Mục Liên cũng hết khóc thương rầu buồn.

Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,

Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan. Mục Liên bạch với Phật rằng:

Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn.

Lại cũng nhờ oai thần Tam-bảo,

Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra.

Như sau đệ tử xuất gia,

Vu Lan bồn pháp dùng mà độ sanh.

Độ cha mẹ còn đương tại thế,

Hoặc bảy đời có thể đặng không?

Phật rằng: Lời hỏi rất thông,

Ta vừa muốn nói con liền hỏi theo.

Thiện nam tử,

Tỳ kheo nam nữ,

Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần,

Tam công, Tể tướng, bá quan,

Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần.

Như chí muốn đền ơn cha mẹ,

Hiện tại cùng thất thế tình thâm.

Đến rằm tháng bảy mỗi năm

Sau khi kiết hạ chư Tăng tựu về.

Chính ngày ấy Phật đà hoan hỷ,

Phải sắm sanh bá vị cơm canh,

Đựng trong bình bát tinh anh,

Chờ giờ tự tứ chúng Tăng cúng dường.

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ

Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi.

Cùng cầu thất thế đồng thì,

Lìa nơi ngạ quỷ sanh về nhơn thiên.

Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp.

Lại xa lìa nạn khổ cực thân.

Môn sanh Phật tử ân cần,

Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.

Thường cầu nguyện thung huyên an hảo.

Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh

Ngày rằm tháng bảy mỗi năm

Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền.

Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,

Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng.

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.

Đệ tử Phật lo âu gìn giữ

Mới phải là Thích tử thiền môn.

Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,

Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.

Mục Liên với bốn ban Phật tử,

Nguyện một lòng tín sự phụng hành.

Trước là trả nghĩa sanh thành,

Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài.

Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)

Phật Thuyết Kinh Báo Ðáp Công Ơn Cha Mẹ

Diễn Nghĩa

Ta Từng Nghe Lời Tạc Như Vầy:

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ

Xá Vệ Thành Kỳ Thụ Viên trung

Chư Tăng câu hội rất đông

Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.

Lại cũng có các hàng Bồ tát

Hội tại đây đủ mặt thường thường

Bấy giờ Phật lại lên đường

Cùng hàng đại chúng nam phương tiến hành.

Ðáo bán lộ đành rành mắt thấy

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời

Thế Tôn bèn vội đến nơi

Lạy liền ba lạy, rồi rơi giọt hồng.

Ðức A Nan trong lòng ái ngại

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương

Vội vàng xin Phật dạy tường:

“...Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài

Ai ai cũng kính Thầy dường ấy

Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?

Phật rằng: trong các môn đồ

Người là đệ tử đứng đầu dày công.

Bởi chưa biết đục trong chưa rõ

Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu,

Ðống xương dồn dập bấy lâu

Cho nên trong đó biết bao cốt hài.

Chắc cũng có ông bà cha mẹ

Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,

Luân hồi sanh tử, tử sanh

Lục thân đời trước, thi hài còn đây.

Ta lễ bái kỉnh người tiền bối

Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa.

Ðống xương hỗn tạp chẳng vừa

Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.

Ngươi chụi khó xét soi cho kỹ

Phân làm hai, bên nữ bên nam.

Ðể cho phân biệt cốt phàm

Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.

Ðức A Nan trong lòng tha thiết

Biết làm sao phân biệt khỏi sai.

Ngài bèn xin Phật tỏ bày

Vì khó chọn lựa gái trai lúc này.

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt

Cách đứng đi ăn mặc phân minh,

Chớ khi rã xác tiêu hình

Xương ai như nấy, khó nhìn khó phân.

Phật mới bảo A Nan nên biết

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng

Ðàn ông xương trắng nặng quằn

Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Người có biết cớ sao đen nhẹ

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,

Sanh con ba đấu huyết ra

Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.

Vì cớ ấy hao mòn thân thể

Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai.

A Nan nghe vậy bi ai

Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo

Phương pháp nào báo hiếu song thân.

Thế Tôn mới bảo lời rằng:

Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc

Sanh đặng con thập ngoạt cưu mang.

Tháng đầu, thai đậu tợ sương

Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc

Tháng thứ ba như cục huyết ngưng

Bốn tháng đã tượng ra hình

Năm tháng ngũ thể (1) hiện sanh rõ ràng

Tháng thứ sáu lục căn (2) đều đủ

Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương

Lại thêm đủ lỗ chân lông

Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ

Chín tháng thì đầy đủ vóc hình

Mười tháng là đến kỳ sanh

Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn

Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu

Nó vẫy vùng đạp quấy lung tung

Làm cho cha mẹ hãi hùng

Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân

Khi sanh đặng muôn phần khoái lạc

Cũng ví như được bạc được vàng

Thế Tôn lại bảo A Nan

Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin

Ðiều thứ nhất giữ gìn thai giáo

Mười tháng trường chu đáo mọi bề

Thứ hai sanh đẻ gớm ghê

Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần

Ðiều thứ ba, thâm ân nuôi dưỡng

Cực đến đâu bền vững chẳng lay

Thứ tư ăn đắng nuốt cay

Ðể dành bùi ngọt đủ đầy cho con

Ðiều thứ năm lại còn khi ngủ

Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con

Thứ sáu, sú nước nhai cơm

Miễn con no ấm chẳng nhờm gớm ghê

Ðiều thứ bảy không chê ô uế

Giặt đồ dơ của trẻ không phiền

Thứ tám chẳng nỡ chia riêng

Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo

Ðiều thứ chín miễn con sung sướng

Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam

Tính sao có lợi thì làm

Chẳng màng tội lỗi, bị giam bị cầm

Ðiều thứ mười chẳng ham chau chuốt

Dành cho con các cuộc thanh nhàn

Thương con như ngọc như vàng

Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn

Phật lại bảo A Nan nên biết:

Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người

Mười phần mê muội cả mười

Không tường ơn trọng đức dày song thân

Chẳng kính mến, quên ơn, trái đức

Không xót thương dưỡng dục cù lao

Ấy là bất hiếu mặc giao

Thì những người ấy đời nào nên thân

Mẹ sanh con cưu mang mười tháng

Cực khổ dường gánh nặng trên vai

Uống ăn chẳng đặng vì thai

Cho nên thân thể hình hài kém suy

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề

Ví như thọc huyết trâu dê

Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan

Con còn nhỏ phải năng chăm sóc

Ăn đắng cay bùi ngọt phần con

Phải tắm, phải giặt, rửa trôn

Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì

Nằm phía ướt con thì phía ráo

Sợ cho con ướt áo, ướt chăn

Hoặc khi ghẻ chóc đầy mình

Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ

Thân gầy mòn nào nệ với con

Ðến khi vừa được lớn khôn

Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng

Cho đi học mở thông trí tuệ

Dựng vợ chồng có thể làm ăn

Ước mong con được nên thân

Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi

Con đau ốm tức thì lo chạy

Dầu tốn hao cách mấy cũng đành

Khi con căn bệnh đặng lành

Thì cha mẹ mới an tâm định thần

Công dưỡng dục sánh bằng non biển

Cớ sao con chẳng biết ơn này

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy

Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang

Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt

Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi

Bà con chẳng kể ra chi

Không tuân Sư phụ lễ nghi chẳng tường

Lời dạy bảo song đường không kể

Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng

Trái ngang chóng báng mọi đàng

Ra vào lui tới mắng càn người trên

Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng

Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn

Lớn lên theo lối hung hăng

Ðã không nhẫn nhịn lại càng hành hung

Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ

Nết tập quen làm sự trái ngang

Nghe lời dụ dỗ quân hoang

Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người

Trước còn tập theo thời theo thế

Thân lập thân tìm kế sanh nhai

Hoặc đi buôn bán kiếm lời

Hoặc vào quân lính với đời lập công

Vì ràng buộc đồng công mối nợ

Hoặc trở ngăn vì vợ vì con

Quên cha quên mẹ tình thâm

Quên xứ quên sở lâu năm không về

Ấy là nói những người có chí

Chớ phần nhiều du hý mà thôi

Sau khi phá hết của rồi

Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài

Theo trộm cướp hoặc là bài bạc

Phạm tội hình, tù ngục phải vương

Hoặc khi mang bệnh giữa đường

Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng

Hay tin dữ, bà con cô bác

Cùng cha mẹ xao xác buồn rầu

Thương con than khóc ưu sầu

Có khi mang bệnh đui mù vấn vương

Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ

Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn

Hoặc nghe con chẳng lo lường

Trà đình tửu điếm phố phường ngao du

Cứ mài miệt với đồ bất chánh

Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang

Làm cho cha mẹ than van

Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu

Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều

Ốm đau đói rách kêu rêu

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương

Phận con gái còn nương cha mẹ

Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa

Cần lao phục dịch trong nhà

Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi

Song đến lúc tùng phu xuất giá

Lo bên chồng chẳng xá bên mình

Trước còn lai vãng viếng thăm

Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà

Quên dưỡng dục song thân ơn trọng

Không nhớ công mang nặng đẻ đau

Chẳng lo báo bổ cù lao

Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay

Nếu cha mẹ rầy la quở mắng

Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng

Chớ chi chồng đánh liên miên

Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than

Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ

Nói không cùng nghiệp dữ phải mang

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng

Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay

Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi

Ðập vào mình, vào mũi vào hông

Làm cho các lỗ chân lông

Thảy điều ruớm máu ướt đầm cả thân

Ðến hôn mê tâm thần bất định

Một giây lâu mới tỉnh than rằng

Bọn ta quả thiệt tội nhơn

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc

Ruột gan dường như nát như tan

Tội tình khó nỗi than van

Làm sao trả đặng muôn ngàn ơn sâu

Trước Phật tiền ai cầu trần tố

Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân

Làm sao báo đáp thù ân

Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình

Phật bèn dụng phạm thinh sáu món

Phân rõ cùng Ðại chúng lóng nghe

Ơn cha nghĩa mẹ nặng nề

Không phương báo đáp cho vừa sức đâu

Ví có người ơn sâu dốc trả

Cõng mẹ cha tất cả hai vai

Giáp vòng hòn núi Tu di

Ðến trăm ngàn kiếp ơn kia chưa đền

Ví có người gặp cơn đói rét

Nuôi song thân dâng hết thân này

Xương nghiền thịt nát phân thây

Trải trăm ngàn kiếp ơn đây chưa đồng

Ví có người vì công sanh dưỡng

Tự tay mình khoét thủng song ngươi

Chịu thân mù tối như vầy

Ðến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu

Ví có người cầm dao thật bén

Mổ bụng ra, rút hết tâm can

Huyết ra khắp đất chẳng than

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng

Ví có người dùng ngàn mũi nhọn

Ðâm vào mình bất luận chỗ nào

Tuy là sự khó biết bao

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền

Ví có người vì ơn dưỡng dục

Tự treo mình cúng Phật thế đèn

Cứ treo như vậy trọn năm

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền

Ví có người xương nghiền ra mỡ

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình

Xương tan thịt nát chẳng phiền

Ðến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng

Ví có người vì công dưỡng dục

Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan

Làm cho thân thể tiêu tan

Ðến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền

Nghe Phật nói thảy đều kinh hãi

Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn

Ðồng thinh bạch Phật lời rằng

Làm sao trả đặng thâm ân song đường?

Phật mới bảo các hàng Phật tử

Phải lóng nghe ta chỉ sau này

Các ngươi muốn đáp ơn dày

Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền

Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa

Cúng dường Tam bảo sớm trưa

Cùng là tu phước chẳng chừa món chi

Rằm tháng bảy đến kỳ Tự Tứ

Thập phương Tăng đều dự lễ này

Sắm sanh lễ vật đủ đầy

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng

Ðặng cầu nguyện song đường trường thọ

Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình

Mình còn phải cần chuyên trì giới

Pháp tam quy, ngũ giới giữ gìn

Những lời ta dạy đinh ninh

Khá tua y thử phụng hành đừng sai

Ðược như vậy mới là khỏi tội

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa

Trong năm đại tội kể ra

Bất hiếu thứ nhất, thật là trọng thay

Sau khi chết bị đầy vào ngục

Ngũ vô gián, cũng gọi A Tỳ

Ngục này trong núi Thiết vi

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề

Trong ngục này hàng ngày lửa cháy

Ðốt tội nhân hết thảy thành than

Có lò nấu sắt cho tan

Rót vào trong miệng tội nhân hành hình

Một vá đủ cho người thọ khổ

Lột thịt da đau thấu tâm can

Lại có chó sắt, rắn gang

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn

Ở trong ngục có giường bằng sắt

Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong

Rồi cho một ngọn lửa hồng

Nướng quay chúng nó da phòng thịt thau

Móc bằng sắt, thương đao gươm giáo

Trên không trung đổ tháo như mưa

Gặp ai chém nấy chẳng chừa

Làm cho thân thể nát nhừ như tương

Những hình phạt vô phương kể hết

Mỗi ngục đều có cách trị riêng

Như là xe sắt phân thây

Chim ưng mổ mắt trâu cày lưỡi le

Chớ chi đặng chết liền rất đỡ

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân

Ngày đêm chết sống muôn lần

Ðến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây

Sự hành phạt tại A tỳ ngục

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân

Chúng ngươi đều phải ân cần

Thừa hành các việc phân trần khoảng trên

Nhứt là phải kinh này in chép

Truyền bá ra cho khắp đông tây

Như ai chép một quyển này

Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn

Nếu in đặng ngàn muôn quyển ấy

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên

Do theo nguyện lực tùy duyên

Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền

Cha mẹ đặng xa miền khóc lãnh

Lại hóa sanh về cảnh thiên cung

Khi lời Phật giảng vừa xong

Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng

Lại phát nguyện thà thân này nát

Ra bụi tro, muôn kiếp chẳng nài

Dầu cho lưỡi kéo trâu cày

Ðến trăm ngàn kiếp lời Thầy không quên

Ví như bị bá thiên đao kiếm

Khắp thân này đâm chém phân thây

Hoặc như lưới trói thân này

Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai

Dầu thân này bị cưa bị chặt

Phân chia ra muôn đoạn rã rời

Ðến trăm ngàn kiếp như vầy

Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên

Ðức A Nan kiền thiền đảnh lễ

Cầu Thế Tôn đặt để hiệu Kinh

Ngày sau truyền bá chúng sanh

Dễ bề phúng tụng, trì chuyên tu hành

Phật mới bảo A Nan nên biết

Quyển kinh này quả thiệt cao xa

Ðặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"

Cùng là "Ân Trọng" thiệt là chơn kinh

Các ngươi phải giữ gìn châu đáo

Ðặng đời sau y giáo phụng hành

Sau khi Phật dạy rành rành

Bốn ban Phật tử rất mừng rất vui

Thảy một lòng vâng theo lời Phật

Và kính thành tin chắc vẹn truyền

Ðồng nhau tựu tại Phật tiền

Nhất tâm đãnh lễ rồi liền lui ra.

Tâm Kinh

Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn

Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần

Làu làu một tánh thiên chân

Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm

Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt

Cõi bờ kia một bước đến nơi

Trải lòng tròn đủ xưa nay

Công thành quả chứng tỏ bày đích đang

Hàng Bồ tát danh Quan tự tại

Khi tham thiền vô ngại đến trong

Thẩm vào trí huệ mở thông

Soi thấy năm uẩn đều không có gì

Ðộ tất cả không chi khổ ách

Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra

Sắc, không chung ở một nhà

Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không

Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng

Không tướng y như tượng sắc kia

Thọ tưởng hành thức phân chia

Cũng lại như vậy, tổng về chân không

Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó

Các pháp kia tướng nọ luống trơn

Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn

Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm

Cớ ấy nên cõi trên không giới

Thể làu làu vô ngại thường chân

Vốn không ngũ uẩn ấm thân

Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không

Thấy rỗng không mà không nhãn giới

Biết hoàn toàn thức giới cũng không

Tánh không sáng suốt đại đồng

Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi

Vận tâm ấy không gì già chết

Huống chi là hết chết già sao

Tứ đế cũng chẳng có nào

Không chi là trí có nào đắc chi

Do vô sở đắc ly tất cả

Nhơn pháp kia đều xả nhị không

Vận lòng trí huệ linh thông

Bờ kia mau đến tâm không ngại gì

Không quái ngại có chi khủng bố

Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên

Tâm không rốt ráo chư duyên

Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn

Tam thế Phật, y đàng Bát nhã

Ðáo Bồ Ðề chứng quả chánh nhơn

Cho hay Bát nhã là hơn

Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về

Thiệt thần chú linh tri đại lực

Thiệt thần chú đúng mực quang minh

Ấy chú tối thượng oai linh

Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần

Trừ tất cả nguyên nhân các khổ

Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư

Thiên nhơn chơn thiệt bất hư

Án lam thần chú chơn như thuyết rằng:

"Yết Ðế, Yết Ðế, Ba La Yết Ðế, Ba La Tăng Yết Ðế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" (3 lần)

Vãng Sanh Thần Chú

Nam mô A Di Ða bà dạ.

Ða tha dà đa dạ, Ða điệt dạ tha.

A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ.

A di rị đa, tỳ ca lan đế.

A di rị đa, tỳ ca lan đa.

Dà di nị, dà dà na.

Chỉ đa ca lệ, ta bà ha.

(3 lần)

Bài Tán Thán Phật A Di Ðà

Chúng Thích tử kiền thiền xưng tán

Ðức Di Ðà vô hạn lợi sanh

Bốn mươi tám nguyện viên thành

Hiện ra tướng tốt sắc thân tuyệt vời.

Kim sắc tướng muôn ngàn công đức

Khắp mười phương chẳng bực sánh bằng

Bạch hào hiển hiện phóng quang

Xoay vần chiếu sáng Vi San năm tòa.

Cặp thanh nhãn thấy xa vô ngại

Sáng trong ngần tứ đại hải dương

Hào quang hóa Phật không lường

Hóa chúng Bồ tát số đương hằng hà.

Ðộ chúng sanh liên hoa chín phẩm

Nước Lạc Bang là cảnh Tây phương

Chí thành thập niệm chiêu chương

Hiện tiền thánh chúng dẫn đường vãng sanh.

Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi Tiếp Dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật.

Nam mô A Di Ðà Phật (108 lần)

Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)

Nam mô Ðại Thế Chí Bồ tát (3 lần)

Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)

Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)

Sám Vu Lan

Ðệ tử chúng con

Vâng lời Phật dạy

Ngày rằm tháng bảy

Gặp hội Vu Lan

Phạm vũ huy hoàng

Ðốt hương đảnh lễ

Mười phương tam thế

Phật, Pháp, Thánh Hiền

Noi gương đức Mục Kiền Liên

Nguyện làm con thảo

Lòng càng áo não

Nhớ nghĩa thân sanh

Con đến trưởng thành

Mẹ dày gian khổ

Ba năm nhũ bộ

Chín tháng cưu mang

Không ngớt lo toan

Quên ăn bỏ ngủ

Ấm no đầy đủ

Cậy có công cha

Chẳng quản yếu già

Sanh nhai lam lũ

Quyết cùng hoàn vũ

Phấn đấu nuôi con

Giáo dục vuông tròn

Ðem đường học đạo

Ðệ tử ơn sâu chưa báo

Hổ phận kém hèn

Giờ này quỳ trước đài sen

Chí thành cung kính

Ðạo tràng thanh tịnh

Tăng bảo trang nghiêm

Hoặc thừa Tự Tứ

Hoặc hiện tham thiền

Ðầy đủ thiện duyên

Dũ lòng lân mẫn

Hộ niệm cho:

Bảy kiếp cha mẹ chúng con

Ðượm nhuần mưa pháp

Còn tại thế:

Thân tâm yên ổn

Phát nguyện tu trì

Ðã qua đời:

Ác đạo xa lìa

Chóng thành Phật quả

Ngưỡng mong các Ðức Như Lai

Khắp cõi hư không

Từ bi gia hộ.

Nam mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát (3 lần)

Sám Mục Liên

Con quỳ lạy Phật Thích Ca

Chứng minh đệ tử tên là Mục Liên

Lòng con mộ đạo tu hiền

Xuất gia theo Phật cầu nguyền hôm nay.

Nghe kinh Phật thuyết bảy ngày

Minh tâm kiến tánh Như Lai trọn lành

Lục thông đầy đủ nên danh

Muốn tìm cha mẹ lòng thành gắng công.

Ðền ơn cho bú ẵm bồng

Liền dùng đạo nhãn xem liền thế gian

Thấy vong mẹ khổ muôn vàn

Ốm gầy đói khát trong đàng quỷ ma.

Mục Liên kêu mẹ khóc la

Ðau lòng thương mẹ đọa sa Diêm đình

Thanh Ðề nhìn thấy con mình

Mục Liên cứu mẹ hết tình gắng công.

Con ơi! Mẹ đói trong lòng

Mục Liên nghe nói khóc ròng thở than

Vội vàng trở lại thế gian

Bới cơm một bát đem sang mẹ mừng.

Và cơm vô miệng nửa chừng

Chén cơm hóa lửa phừng phừng thành than

Mục Liên xem thấy kinh hoàng

Trong lòng đau đớn khóc than buồn tình.

Mẹ ơi! niệm Phật độ mình

Trở về lạy Phật cầu xin mẹ già

Thích Ca đức Phật phân qua

Mẹ ngươi tội nặng đọa ra nghiệp hành.

Ta truyền cứu tế pháp lành

Cần cầu tăng chúng tịnh thanh chú nguyền

Cầu cho phụ mẫu hiện tiền

Lục thân quyến thuộc bình yên đều hòa.

Bảy đời phụ mẫu đã qua

Về trời hưởng phước sáng lòa hào quang

Vui chơi thông thả thanh nhàn

Ngày rằm tháng bảy lập đàn trai Tăng.

Sắm cơm trăm món đồ ăn

Trái cây ngũ quả hương đăng rõ ràng

Chiếu, giường, bồn nước, mùng, màn

Dầu, đường, trà lá, bát vàng đựng cơm.

Những đồ vật quý bông thơm

Thành tâm dọn tiệc Lan Bồn phân minh

Cúng dường Tam bảo cầu kinh

Chư Tăng tịnh giới giữ gìn nghiêm trang.

Cầu cho thí chủ trai đàn

Tâm hành thiền định vái van chúc nguyền

Thanh Ðề khổ ách hết liền

Ngày Rằm tháng Bảy thành Tiên về Trời.

Noi gương hiếu thảo đời đời

Xót thương phụ mẫu hiện thời nuôi con

Nhai cơm cho bú hao mòn

Ơn sâu nghĩa nặng thương con hết lòng.

Trời cao đất rộng mênh mông

Biển hồ lai láng sánh đồng Thái sơn

Tu hành báo tứ trọng ân

Ðộ đời ba cõi sạch trơn trọn lành.

Mục Liên đại hiếu tu hành

Báo ân phụ mẫu nên danh độ đời.

Hồi Hướng

Phúng kinh công đức thù thắng hạnh

Vô biên thắng phước giai hồi hướng

Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh

Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.

Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não

Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu

Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ

Thế thế thường hành Bồ tát đạo.

Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung

Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu

Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh

Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.

Nguyện dĩ thử công đức

Phổ cập ư nhất thiết

Ngã đẳng dữ chúng sanh

Giai cộng thành Phật đạo.

Tam Tự Quy

Tự quy y Phật,

Xin nguyện chúng sanh,

Thể theo đạo cả,

Phát lòng Vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp,

Xin nguyện chúng sanh,

Thấu rõ kinh tạng

Trí tuệ như biển.

Tự quy y Tăng,

Xin nguyện chúng sanh,

Thống lý đại chúng

Hết thảy không ngại.

Hòa Nam Thánh Chúng

Chú thích:

(1) Đầu, hai tay, hai chân

(2) Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Trên đây Tìm Đáp Án vừa gửi tới bạn đọc bài viết Nghi thức tụng kinh Vu lan báo hiếu. Bài viết đã cung cấp cho chúng ta thấy được các nghi thức để tụng kinh Vu lan báo hiếu. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu bổ ích nhé.


Nếu bạn không thấy nội dung bài viết được hiển thị. Vui lòng tải về để xem. Nếu thấy hay thì các bạn đừng quên chia sẻ cho bạn bè nhé!