Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT12

Bùi Thế Hiển
Admin 21 Tháng mười hai, 2020

Tìm Đáp Án xin gửi tới thầy cô bài viết Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT12 để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch BDTX module THPT12 là bài thu hoạch về khắc phục trạng thái tâm lý căng thẳng trong học tập của học sinh THPT. Mời thầy cô cùng tham khảo chi tiết và tải về bài thu hoạch tại đây.

Bài thu hoạch BDTX module THPT12

SỞ GD & ĐT .............

TRƯỜNG THPT ........

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

 

..............., ngày .......tháng .....năm ........

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN

Module THPT12

Họ và tên: ..........................

Ngày, tháng, năm sinh:...............

Tổ công tác: .......................

Trường THPT ...............

Nhiệm vụ được phân công năm học ....................: Giảng dạy môn Hoá học các lớp khối lớp 12; Tổ phó chuyên môn; Thư ký hội đồng.

I. CÁC MODULE ĐĂNG KÍ.

1. Module THPT 12: Khắc phục trạng thái tâm lí căng thẳng trong học tập của học sinh trung học phổ thông

1.1. Khái niệm chung về stress:

“Stress có tính chất tổng hợp chứ không phải thể hiện trong một trạng thái phản ứng không đặc hiệu của cơ thể với bất kì tín hiệu nào”.

“Stress là nhịp sống luôn có mặt ở bất kì thời điểm nào trong sự tồn tại của chúng ta. Một tác động bất kì tới một cơ quan nào đó đều gây ra stress. Stress không phải lúc nào cũng là kết quả của sự tổn thương, ngược lại có 2 loại stress khác nhau, đối lập nhau. Stress bình thường khỏe mạnh eutress. Stress độc hại hay còn gọi là stress tiêu cực là dystress.”

“Stress tâm lí chính là phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lí xuất hiện trong các tình huống mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro . Ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do các tác nhân kích thích mà do sự đánh giá chủ quan về các tác nhân tố đó.”

Vê phương diện tâm lí học, có thể hiểu stress là sự căng thẳng về mặt tâm lí và sinh lí mà con người trải qua trong hoạt động, trong cuộc sống.

1.1.2 Nguồn gốc gây ra stress.

- Nguồn gốc từ cuộc sống gia đình: Những tác nhân gây stress từ phía gia đình thường gặp nhất trong những tác nhân gây ra stress. Đó là những vấn đề có liên quan đến yếu tố kinh tế và tình cảm, những kì vọng của những người trong gia đình đối với mỗi thành viên ...những yếu tố này thường phối hợp với nhau tác động rát mạnh mẽ đến cuộc sống sinh hoạt, nhận thức, tình cảm, và hành vi của các thành viên trong cuộc sống gia đình cũng như hoạt đồng ngoài xã hội.

- Nguồn gốc từ môi trường xã hội: Đó là những yếu tố liên quan đến môi trường sống, học tập và làm việc ... và những mối quan hệ, ứng xử xã hội, tâm lí - xã hội trong đó chủ thể tham gia hoạt động . những yếu tố như tiếng ồn, ô nhiễm môi trường sống, thay đổi chế độ chính trị ... cũng là những tác nhân gây nên stress.

- Nguồn gốc từ môi trường là những yếu tố như khí hậu, thời tiết.

- Nguồn gốc từ bản thân:

+ Yếu tố sức khỏe: những rối loạn bệnh lí mới xuất hiện, những bệnh lí ở giai đoạn cuối, hoặc những bệnh lí mãn tính, sự khiếm khuyết về thực thể ...

+ Yếu tố tâm lí; đó là trình độ thích nghi của các thuộc tính tâm lí bao gồm: năng lực, ý chí, tình cảm, nhu cầu, trình độ nhận thức, kinh nghiệm... của chủ thể. Ngoài ra có thể là những yếu tố liên quan đến vô thức hoặc những dồn nén từ thời thơ ấu, trong quá khứ...

1.2 Khái niệm về tress trong học tập

1.2.1 Một số đặc điểm tâm lí đặc trưng của học sinh trung học phổ thông.

- Tính năng động và độc lập trong học tập: hoạt động học tập của học sinh THPT đã đặt ra những yêu cầu cao đối với tính tích cực và độc lập. Việc học tập này đòi hỏi các em phải phát triển mạnh mẽ tư duy, lí luận, tư duy trừu tượng...

- Thái độ trong học tập của học sinh, THPT đã có nhiều thay đổi vì kinh nghiệm sống ngày càng phong phú, các em ý thức được vai trò của việc học đối với bản thân mình nên các em rất tự giác trong việc hoàn thành những nhiệm vụ học tập. Nhu cầu được chiếm lĩnh tri thức là một nhu cầu rất cơ bản của học sinh THPT hiện nay nói riêng và thanh niên hiện nay nói chung. Tuy nhiên, thái độ của thanh niên đối với các môn học có sự lựa chọn do ý nghĩa xã hội của môn học, Vì vậy xảy ra trường hợp các em chỉ hứng thú và tập trung nhiều thời gian của mình vào học tập môn học mình yêu thích mà ít dành thời gian cho các môn học khác. Đó là hiện tượng học lệch hiện nay.

- Hứng thú học tập biểu hiện ở học sinh là sự học tập ổn định và bền vững. Một số em học sinh xuất hiện hứng thú với một hay một số môn học nào đó dẫn đến ở các em hình thành xu hướng nghề nghiệp và quyết định đến sự lựa chọn nghề nghiệp sau này của các em.

- Tính chủ định trong học tập của các em phát triển mạnh và chiếm ưu thế . Thái độ học tập có ý thức đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định trong các quá trình nhận thức và năng lực điều khiển bản thân của các em trong học tập.

1.2.2 Bản chất của stress trong quá trình học tập ở học sinh THPT.

Toàn bộ những tác động bên ngoài lên cơ thể của chúng ta là những tác nhân có thể gây ra stress. Stress là phản ứng của cơ thể trước các tác nhân đó. Trong học tập học sinh chịu rất nhiều tác động, áp lực,không chỉ ở yêu cầu, nội dung tri thức môn học mà còn ở phương pháp giảng dạy, thái độ giảng dạy của giáo viên bộ môn... Những điều đó tạo nên stress ở các em . Đó là những biến đổi tâm lí của học sinh khi các em giải quyết các các vấn đề trong học tập. Cụ thể hơn đó là những biến đổi trong quá trình nhận thức của các em.

Điều này có nghĩa là stress trong học tập ở học sinh chỉ là một quá trình. Nó chỉ xuất hiện khi các nhiệm vụ học tập trở thành tình huống có vấn đề của mình. Stress trong học tập là tổng hòa của một quá trình những biến đổi đáp ứng cả hai mặt: phản ứng sinh học và đáp ứng về mặt tâm lí. Nó gồm nhiều giai đoạn đáp ứng ở những mức độ khác nhau, tạo nên sự biến đổi cả về năng lượng tâm lí nhận thức của học sinh, tạo ra năng lượng tâm lí mới ở bản thân học sinh cả về sinh lí và về tâm lí. Nó có tác dụng củng cố, phát triển khả năng giải quyết vấn đề của học sinh thích ứng tốt nhất với môi trường tri thức mới. Nếu những vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức của học sinh không được giải quyết thì có thể phá vỡ sự cân bằng tâm lí của học sinh, có thể dẫn đến những rối loạn thích nghi tạm thời, làm cho các em khó hoặc không thể đối mặt, giải quyết vấn đề trong học tập đang đặt ra đối với các em.

Stress có thể phân ra làm 3 loại:

Stress sinh thái: Đây là loại stress mà nếu yếu tố gây nên nó có nguồn gốc từ sinh thái, gọi tắt là stress sinh thái. Stress loại này phát sinh từ mối quan hệ giữa môi trường bên trong và môi trường bên ngoài cơ thể . Stress sinh thái có các loại:

+ Rối loạn chu kì nhịp sinh học: Là loại stress sinh thái cơ bản nhất.

+ Rối loạn nhịp ăn và ngủ: Đây là loại stress đã được nghiên cứu rất nhiều . Các thực nghiệm tiến hành trên người lớn, khỏe mạnh đã cho thấy rằng: Với chế độ lao động nặng kèm với ít ngủ (< 5h/ ngày), hoặc không ngủ kèm theo chế độ ăn giảm calo thì khả năng lao động cũng như trạng thái tâm lí bị biến đổi, giảm chất lượng do stress.

+ Stress do chấn thương và bệnh tật: Là một trong những nguyên nhân gây nên stress sinh thái vì nó trực tiếp làm tổ hại, suy giảm đến chức năng hoạt động của thực thể.

+ Stress do tiếng ồn và các hoạt động tâm lí, sinh hóa: Đó là những nguyên nhân gây nên stress sinh thái.

Stress tâm lí – xã hội: Các yếu tố của xã hội có thể gây nên stress .

+ Tâm lí xã hội, nhóm xã hội, trình độ tâm lí và kiểu loại nhân cách trong các mối quan hệ và ứng xử xã hội. Đây là những yếu tố quan trọng gây nên những biến đổi, thậm chí là rối loạn trong đời sống tâm lí.

+ Sự thất vọng: người ta thường thất vọng khi không đạt được điều mong muốn, hoặc không thế này mà lại thế kia .

+ Sự quá tải: Là trạng thái mà số lượng kích thích vượt quá khả năng ứng xử đối với chủ thể .

+ Sự thiếu tải: Do những kích thích tác động đơn điệu, tẻ nhạt, buồn chán, không tương xứng với khả năng của chủ thể.

Stress sinh lí: Theo học thuyết hành vi, họ đã đưa ra mô hình S – R ( kích thích – phản ứng)

* Các yếu tố ảnh hưởng đến stress trong học tập của học sinh

- Các yếu tố khách quan – môi trường tâm lí – xã hội:

Trong thời đại thông tin bùng nổ, kiến thức được cập nhật một cách nhanh chóng, hiện đại, những phát minh khoa hoc, tiên tiến nhất không phải cho đến khi cho vào sách học sinh mới biết mà nó đã đến với các em hàng ngày thông qua mạng thông tin Internet, truyền hình, sách, báo điện tử... Nhưng cũng chính điều này đòi hỏi ở các em phải có khả năng định hướng giá trị, lựa chọn thông tin, biết làm chủ thông tin.

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi thì môi trường xã hội cũng có thể mang đến nhiều bất lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách như những tệ nạn tràn lan trong xã hội, nó tồn tại ở nhiều hình thức khác nhau. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc định hướng giá trị nhân cách, lối sống, quan hệ và học tập của các em học sinh. Tất cả những biến động của thời đại đang liên tục tác động đến mọi tầng lớp trong xã hội trong đó thanh niên học sinh, buộc họ phải lựa chọn các động cơ thích ứng. Bản thân học sinh trong tương lai họ sẽ là nguồn nhân lực mạnh mẽ cho xã hội. họ đang cố gắng học tập, trau dồi tri thức, kinh nghiệm để đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày một cao. những yếu tố đó của môi trường, của thời đại đều có ảnh hưởng đến stress trong học tập.

- Các yếu tố chủ quan:

+ Về mặt sinh lí: Bị mắc những chứng bệnh đau đầu, đau lưng khi ngồi vào bàn học, sức khỏe yếu...

+ Về mặt tâm lí:

Nhận thức của học sinh trước các tình huống học tập: vốn hiểu biết đã có mâu thuẫn với nhiệm vụ học tập mới, khó trong khi trình độ nhận thức còn hạn chế, bất lực với khả năng học tập của mình.

Thái độ của học sinh trước các nhiệm vụ của môn học đề ra: thấy mình không có khả năng học, không hứng thú với môn học, không tìm được phương pháp học tập thích hợp...

Cách thức đáp ứng của học sinh trước các nhiệm vụ học tập: Đứng trước một bài toán khó, cách ghi nhớ và vận dụng trí nhớ một vấn đề, cách giải quyết một nhiệm vụ học tập hay một vấn đề của cuộc sống, cách bố trí thời gian trong học tập, thi cử và nghỉ ngơi, ít dành thời gian cho việc giải trí, vui chơi...

Đó là yếu tố quan trọng có thể làm tăng thêm mức độ hay giảm mức độ stress trong học tập của học sinh . Bởi vì những yếu tố đó có sức ảnh hưởng tâm lí ngay trong bản thân chủ thể mà nó còn có thể lan truyền sang ngưới khác trong nhóm.

*Một số cách ứng phó với stress trong học tập:

- Ứng phó nhằm vào giải quyết vấn đề:

+ Chống trả ( phá hủy, rời chỗ hoặc làm yếu mối đe dọa).

+ Bỏ chạy:Tìm cách chống trả hoặc bỏ chạy( thương lượng, mặc cả, thỏa hiệp)

+ Ngăn ngừa stress trong tương lai.

- Ứng phó nhằm vào cảm xúc:

+ Các hoạt động nhằm vào thân thể ( dùng thuốc, thư giãn, hồi sinh học).

+ Các hoạt động nhằm vào nhận thức.( những trò tiêu khiển,..)

+ Các quá trình vô thức làm méo mó thực tại có thể đưa ra stress nội tâm)

- Quản lí được căng thẳng của bản thân.

Việc đầu tiên là học sinh phải biết nhận ra các dấu hiệu của stress như bất bình thường về thể chất, thần kinh và quan hệ xã hội.

Ứng phó với stress là khả năng giữ cân bằng khi xảy ra những tình huống, sự kiện đòi hỏi quá sức. có những biện pháp sau để ứng phó với stress:

- Quan sát xung quanh để tìm những điều kiện thuận lợi cho bản thân khỏi căng thẳng.

Nghỉ ngơi, thư giãn, tặng cho bản thân một thời gian nghỉ ngắn mỗi ngày để thoát khỏi cảm giác khủng hoảng.

- Đừng để tâm đến những việc lặt vặt; Tập trung giải quyết một khó khăn nào đó và thay đổi cách phản ứng trước khó khăn đó. Nhưng bạn hãy thay đổi từ từ và có chọn lọc, từng bước một.

- Tránh những phản ứng thái quá: ngủ đủ giờ.

- Không được trốn tránh bằng rượu hay thuốc: Xoa bóp và những bài tập thở thư giãn rất hữu dụng để kiểm soát stress . Những thư giãn như vậy sẽ giúp xóa bớt ưu phiền khỏi tâm trí của bạn.

- Cắt bớt khối lượng công việc sẽ giúp bạn tránh được việc suốt ngày phải lo nghĩ quá nhiều, không nên nhận quá nhiều công việc cùng một lúc.

Thay đổi cách nhìn mọi việc; hãy làm điều gì đó cho những người khác.

Đi bộ. học đánh tennis hay thử làm vườn

Chiến lược “dạ dày”: Điều mấu chốt của stress là “Chẳng qua tôi tự phiền muộn chính bản thân mình”.

Hãy tự hỏi bản thân sẽ đối phó như thế nào với stress, thay vì luôn dằn vặt mọi chuyện sẽ trở nên tồi tệ như thế nào.

Stress làm tăng trí nhớ, khi stress trong thời gian ngắn và không quá nghiêm trọng, stress khiến cơ thể sản sinh ra nhiều glucose lên não, tạo thêm nhiều năng lượng cho các noron. Điều này giúp sự phát triển trí nhớ và phục hồi trí nhớ. Mặt khác nếu stress kéo dài thì nó lại có thể cản trở việc vận chuyển glucose và từ đó làm giảm trí nhớ”.

Giảm mức độ cao của stress để có một sức khỏe khỏe tốt để học và thi.

Đối với học sinh THPT đặc biệt là học sinh cuối cấp thì việc đạt điểm cao trong các kì thi là mục tiêu cần đạt được. Muốn làm được điều đó thì các em phải thật sự tỉnh táo, phải có một trí nhớ thật tốt để có thể tích lũy được một khối lượng kiến thức thật tốt. Vậy phải làm gì để có một trí nhớ thật tốt để đạt kết quả cao?

Trước hết học sinh phải tránh hiện tượng học dồn, thi mới học, học đêm ngủ ngày. Trí não của con người chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong vòng 45 phút đến 1 giờ sau đó cần được nghỉ ngơi, giải lao hoặc làm những công việc chân tay từ 15 đến 20 phút sau đó mới hoạt động trí não trở lại.

Chú ý dùng đủ các thực phẩm như sữa( mỗi ngày nên dùng 1 li sữa, trứng, thịt, cá, rau, quả, đặc biệt nên dùng thêm các loại dầu thực phẩm như dầu đậu nành, dầu mè.

Cà phê, trà đậm là chất có tác dụng kích thích thần kinh trung ương làm cho tỉnh táo, chống lại cơn buồn ngủ nên uống vào buổi sáng, không nên lạm dụng cà phê để thức cả đêm để học. Trong thời gian học thì các em học sinh nên dành đủ thời gian để ngủ.

  • Một số biện pháp làm giảm stress có hại:

- Tắm: Nước có tác dụng xoa dịu các cơ và khớp xương bị đau mỏi . Tắm giúp các tế bào được phục hồi, chất độc được đưa ra ngoài cơ thể nhanh hơn. trong khi tắm nên giảm các kích thích thị giác như các loại khăn tắm màu sặc sỡ.

- Hát:Hát sẽ kích thích họat động cơ hoành, các cơ cổ. Nhờ có cơ hoành trung tâm thần kinh dinh dưỡng thuộc vùng bụng được phục hồi. hát còn cung cấp thêm ô xi cho cơ thể. là cơ hội để mọi người bộc lộ cảm xúc.

- Chơi đùa với thú nuôi:Thú nuôi rất tốt cho việc giải tỏa stress cho con người. Người ta có thể tâm sự những buồi vui với vật nuôi trong nhà. Cho dù vật nuôi trong nhà không biết nói nhưng chúng có thể chia sẻ những cảm xúc vui buồn của con người.

- Thư giãn bằng các câu chuyện hài, sau mỗi công việc căng thẳng cần có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn với tất cả những loại hình mà mình thích nhất.

- Cười: Nụ cười sảng khoái không chỉ mang lại sự vui vẻ, thoải mái mà khi cười cơ thể tiết ra chất morphine tự nhiên, tạo ra khả năng chống stress rất hiệu quả.

-Thưởng thức nghệ thuật: Ngắm nhìn một bức tranh, nghe một bản nhạc mà mình yêu thích.

Masage: mỗi ngày có 30 phút để làm việc này sẽ làm cho hiện tượng co cơ giảm đi một cách rõ rệt . Massage có thể giúp cho việc lưu thông máu được tốt hơn, xoa dịu các khớp xương bị đau...

- Tập thể dục buổi sáng, bách bộ: Việc này giúp cơ thể lưu thông khí huyết, hít thở không khí trong lành, tĩnh tâm.

- Thiền – Yoga: là một môn tập luyện cho tinh thần và cơ thể con người rất tích cực, hữu hiệu,Yoga giúp con người có thể tự điều chỉnh nhịp điệu tự nhiên, kết hợp hài hòa giữa tinh thần và thể xác, tránh được những căng thẳng trong cuộc sống thường nhật.

* Một số phương pháp trợ giúp học sinh THPT ứng phó với stress trong học tập.

- Việc ứng phó với stress phụ thuộc vào đặc điểm tính cách và tình trạng sức khỏe của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, những mối quan hệ của họ với người khác cũng có thể là yếu tố gây cản trở hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng phó với stress. Vì vậy cần trợ giúp họ để họ có thể ứng phó linh hoạt trước những ảnh hưởng từ stress. Bằng cách nắm chắc không chỉ những vấn đề vướng mắc, những nhu cầu cần được trợ giúp mà còn cả những khả năng và thế mạnh sẵn có của họ. Ta có thể trợ giúp cho họ vượt qua những căng thẳng mà vẫn không làm cho họ có cảm giác đang bị phụ thuộc hay bất lực.

Nguyên tắc chung trong việc trợ giúp về mặt tâm lí.

Đầu tiên là chăm sóc sức khỏe và tránh xa những nguy hiểm có thể có: Trực tiếp chăm sóc, tránh xa những nguy hiểm có thể có bằng thái độ nồng nhiệt, ấm áp. trợ giúp cho họ thực phẩm và quần áo. tránh xa những nguy hiểm và hạn chế nhiều nhất những tổn hại tiếp theo có thể đến bởi vì trong lúc hoảng loạn có thể họ không đề phòng được hết mọi khả năng có thể xảy ra.

Can thiệp sớm một cách trực tiếp chủ động và bình tĩnh; Khi con người bị rơi vào tình trạng khủng hoảng, nếu càng được điều trị sớm thì khả năng hồi phục càng nhanh. Ngược lại, nếu họ bị chìm đắm lâu trong sự dằn vặt và không định hướng được cách thoát ra thì hiệu quả phục hồi càng chậm. Do đó cần có biện pháp hỗ trợ kịp thời cho những đối tượng trên ngay sau khi sự kiện gây khủng hoảng gây ra.

Tập trung vào những vấn đề của hiện tại: Trợ giúp bằng cách thuyết phục họ chấp nhận những gì đã xảy ra ; khuyến khích họ kể những gì đã xảy ra cũng như bộc lộ những cảm xúc của họ.

Cung cấp những thông tin chính xác về những gì đã xảy ra: Người ta thường rất muốn có được những thông tin về tình trạng sức khỏe, thảm họa hay bất cứ các sự kiện nào khác liên quan . Họ cần biết chuyện gì đã xảy ra và tại sao. Do đó người trợ giúp có trách nhiệm cung cấp toàn bộ thông tin xác thực về những việc đã xảy ra và hậu quả của nó để lại như thể nào.

.............., ngày .......tháng .......năm .........

Người viết báo cáo

Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm tại mục giáo dục đào tạo trong mục biểu mẫu nhé.

  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT1
  • Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module THPT2

Nếu bạn không thấy nội dung bài viết được hiển thị. Vui lòng tải về để xem. Nếu thấy hay thì các bạn đừng quên chia sẻ cho bạn bè nhé!

Tài liệu mới nhất